Trang

28 tháng 9, 2012

MỪNG SINH NHẬT



Bùi Nghiệp


Đâu thể níu thời gian thôi dừng lại,
Nên xin đành mừng muộn ngày sinh em.
Ánh hoàng hôn dẫu vương trải lên thềm,
Em cứ bước vào xuân “năm mươi mốt”…

Mừng sinh nhật, bỗng dưng anh thấy nhột,
Bởi vô tình hay hờ hững quên đi?
Em có buồn cau có nét chim di?
Thì trang điểm cho mờ tan dấu vết!

Ngày tháng hỡi chơi chi trò lết bết,
Bắt em già trôi theo áng thời gian.
Nên năm năm soi lại chút dung nhan,
Mảnh gương có than dài hơi đồng cảm.

Nhưng em ạ! Dù niên cùng nguyệt tận,
Dẫu thời gian chơi ù ập trốn tìm.
Em cứ là hoa trang điểm tươi xinh,
Rung theo gió và lung linh rạng rỡ.

Anh biết lắm đời sắp toan xuống lỗ!?
Còn làm thơ sinh nhật chúc mừng em.
Dù nghễnh tai, mắt toét ướt nhập nhèm,
Nhưng rộn rã tim già chưa loạn nhịp…

Mừng sinh nhật Thy Thoa (19/4/1961 - 2012)






Khóc con trai.




(Viết thay Đào Tiến)

Vội bỏ đi rồi hỡi con trai,
Ta buồn quạnh quẻ hắt hiu gầy.
Tre già còn vững trong giông bão,
Măng sữa lại tàn bởi gió lay.
Cõi ấy con về sao vội vã?
Trần gian bố ở chốn lưu đày.
Thơ sầu bút viết lời đau đớn,
Tan nát lòng cha suốt tháng ngày...

Tháng ngày lòng mẹ luống sầu tây,
Thương nhớ con trai suốt dặm dài.
Dìu dắt mỗi đường khi lối bĩ,
Nâng niu từng bước lúc đời khai.
Cạn nguồn sữa ngọt còn âu yếm!
Khô mạch máu đào cứ quắt quay.
Muốn níu cao xanh đòi đoản mệnh,
Trả tôi máu thịt đoạn đành đây...
Bùi Nghiệp

KINH ĐỢI




(Giỗ 1 năm bố con Phạm Tâm)

  Hương trầm bay quyện ngọn gió đông,
Lạnh lắm người ơi chẳng ấm lòng.
Mùa đông năm ngoái, đông năm ngoái,
Người bỏ ta rồi một giấc không!

Người bỏ ta rồi một giấc không!
Chiếc lá chao xoay ngọn gió bồng.
Năm cùng tháng hết vai run rẩy,
Nguyệt tận trăng tà chong mắt trông.

Nguyệt tận trăng tà chong mắt trông.
Mờ trong nhân ảnh mắt đoanh tròng.
Lâm râm chuỗi hạt kinh sương ngọc,
Lưu ly từng giọt hóa dòng sông!

Lưu ly từng giọt hóa dòng sông!
Mầu nhiệm thuyền kinh tách cõi hồng.
Nghìn thu người nhớ ra bờ đợi…
Ước hẹn tương phùng thôi nhớ mong!
                        
 Bùi Nghiệp

HÀNG RÀO BÌNH YÊN.




Có hàng rào bình yên trong bão tố,
Nhiều bàn tay đan năm ngón chen nhau.
Những ban tay khăng khít thuở ban đầu,
Đan kết lại, khối tình son kim thạch.

Mình đã sống quá nửa đời tai ách,
Mình đã đi bóng xế đổ nghiêng đường,
Mình đã mơ từng giấc mộng hoàng lương,
Bừng mắt dậy, mở chong nhìn trao tráo.

Kìa mây ảo vẽ vời tranh vân cẩu,
Kìa bóng câu qua khe cửa băng vèo.
Kìa công hầu khanh tướng chẳng mang theo,
Ta biết thế! nên cười vang ngạo nghễ.

Ta biết thế! Nên bình yên đấy nhé.
Dặn thê nhi, thôi ngộ biến tùng quyền,
Bởi tồn vong sinh tử mệnh do thiên.
Tri thiên mệnh tắc bình yên lạc đạo.

Ta đâu sợ, đắm mình trong giông bão.
Thương nhân sinh chưa tắm gội thưong đau,
Thương nhân sinh sầu mặt ủ mày chau.
Công tích lũy nay dã tràng xe cát.

Nào đứng dậy! Bàn tay đây nắm chắc.
Lại lên đường, ta há sợ phong sương.
Ải nhân gian ta vượt quá nửa chừng,
Ta nào ngại hề! Lưng còng gối mỏi.

Ta nào ngại hề! Tình trao nóng hổi!
Chẳng câu thề, tình theo mãi bên nhau.
Những bàn tay khăng khít buổi ban đầu,
Đan kết lại, cho bình yên hơi thở!

Bão tố ơi! đừng hòng phá vỡ.
Khoảng bình yên có sẵn ở trong ta…
Bùi Nghiệp.




GỞI HƯƠNG CHO GIÓ



                 
 Thạch sùng chép miệng khô khan (!)
Canh khuya dằng dặc nhặt khoan nỗi lòng.
Nửa đời lận đận sắc không,
Phù hoa chìm nổi trần hồng lênh đênh.
Ngòai hiên lá úa buồn tênh,
Nửa mong ở lại nửa mong về nguồn.
Bình minh đến, lại hòang hôn,
Năm mươi năm lẻ bồn chồn bôn ba.
Bàn chân hằn vết phù sa,
Gối mòn chưa mỏi bóng tà đã nghiêng.
Bút thần run rẩy còn duyên,
Một trương thi pháp còn biêng biếc tình.
Ừ thôi cũng cuộc tử sinh,
Ngựa hồng tung vó về miền quê xưa.
Quẳng đao thương, vác cày bừa,
Mực mồng tơi tím dậu thưa sẵn chờ.
Thuyền trăng chất khẳm bài thơ,
Rượu tràn miệng cốc hò lơ đục khàn.
Nổi trôi cuồng xóay hỗn mang,
Chiều nghiêng nắng quái cờ tàn buồn tênh.
Chừ ! Bên vực thẳm chênh vênh,
Vẳng nghe gió hú thần linh gọi về.
Giác hồn tỉnh tỉnh mê mê,
Cười vang ngạo nghễ mình nghe tiếng mình.
Sống can trường! Thác anh minh!
Lời nguyền son sắt xưa in trong hồn.
Tiếc chi mấy gợn sóng cồn,
Mà nôn nao nhớ, mà bồn chồn mong.
Ừ thôi! Chữ sắc chữ không,
Bức tranh vân cẩu nào mong còn gì.
Hành trình nhân thế cứ đi,
Túi thơ, nậm rượu, cố tri nhắn lời.
CÒN TRỜI! CÒN ĐẤT! CÒN CHƠI!…

Bùi- Nghiệp.                         

VIỆC CHÚA LÀM!



(Tặng giáo sĩ Anh Giáo Jos Mai Biên)

Từ quê nhà , ta theo dấu San thành,
Nơi ấy có anh : cùng tông cùng tổ.
Việc Chúa làm, nào ai biết rõ ?
Như mây nước tương phùng,
Vần xoay vận chuyển khôn cùng!...
Dấu chỉ nơi anh: con người khai phá!
Từ trẻ thơ long đong vật vã...
Bởi Chúa mài – giũa - gọt nơi anh,
Chúa xới – vun - trồng  từ thuở đầu xanh,
Vì Ngài muốn biến anh thành khí cụ!
Ôi việc Chúa! Nào ai biết tỏ?

Như người thợ:
Tiện – phay – bào cho phẳng cho tròn,
Hàn – vá - nối cho liền cho kín.
Người đóng tàu mong đất liền với biển,
Cho đôi bờ nối nhịp cầu vui,
Cho hàng hàng lớp lớp ngược xuôi,
Chúa sắm sửa để anh nên phường nên thợ.
Ôi việc Chúa! Xin đừng bỡ ngỡ!

Như cuộc đời thường:
Như đũa có đôi,
Như giầy như dép chẳng chịu đơn côi.
Bởi anh con cháu A Dong tổ phụ,
Bởi Chúa muốn anh nên chồng nên vợ.
Để hiểu, thực hành ân nghĩa phu thê,
Để  sản sinh con cháu đề huề,
Để anh gương mẫu dậy răn nhân thế.
Ôi việc Chúa! Nghĩ suy chẳng thể!

Anh với ta, cùng tiên tổ một nhà,
Chung sách bài hôm sớm ê a,
Cùng thuở hàn vi cơm cà mắm mặn,
Cũng hai buổi sớm hôm lận đận.
Có khi khốn cùng phẫn hận nguồn cơn:
“ Hỡi Chúa ơi, sao Người nỡ bỏ con!”
Con rời rã đứt hơi rồi Lạy Chúa!
Cổ chát đắng, họng khô đau tận cúa,
Lưng cong oằn, hằn bỏng rộp bong da.
Nhưng! Không thể mất niền tin yêu trông cậy,
Bàn tay nào ân cần nâng con dậy?

Ta với anh: Hưởng lộc ân nơi đấng tạo thành,
Thần linh Chúa như bạn đồng hành,
Hằng soi sáng, đốt hun ta bằng lửa...
Lửa dẫn ta thoát vòng vây buả,
Lửa dẫn đường đi về nhà Chúa.
Hãy mến yêu phó thác nơi người,
Hãy bình tâm, trông cậy an bài,
Chúa chẳng làm thất vọng một ai!

Có phải chăng? Đây là dấu chỉ!
Cho dân Ngài đầu thiên niên kỷ.
Việc Chúa làm,
Có thủy ắt phải có chung.
Ngày cánh chung, sẽ hoan lạc vô cùng.
Quy về một mối!
Việc Chúa làm! Nào ai biết nổi!...

                                            KP Bùi Nghiệp

SAY TRĂNG




Mươi vần thơ sầu rụng trên đầu,
Hào quang đổ vạn tinh cầu lấp loáng.
Sóng ngân vỗ, chạm thành ly chếnh choáng!
Ta lênh đênh chệnh choạng giữa mờ trăng.

Ta lao đao run rẩy lạnh như băng,
Giờ hấp hối một sinh linh khờ khạo.
Ta còn nhớ một thanh xuân khí hạo,
Gởi mảnh tình vào dung mạo thanh mai.

Đêm đợi trăng, đợi nhân ảnh liêu trai,
Dòng tâm bút dày vò trang giấy ố...
Rượu mấy ngụm ta nuốt  sầu vạn cổ!
Thơ mấy vần ta thố lộ trăng xanh.

Rượu em ơi! Ơi tri kỷ song hành,
Đi đi nhé! Nhé cùng đường lướt khướt.
Đàn một khúc gởi bờ cầu Ô Thước.
Sụt sùi chi gầy guộc khóc mưa Ngâu.

Hồ xự xang ta nắn mấy cung sầu!
Trầm khàn vọng giữa đêm thâu dằng dặc,
Quên quên nhé! Kẻ cuồng si ngơ ngác…

Bùi Nghiệp



NGHĨA TRANG VÙNG ĐẤT LŨ



                   
                  
Mùa nước nổi chống  xuồng ra mộ địa,
Sóng bồng-bềnh lay cỏ dại ven gò.
Chốn hoang liêu hình  Thập tự nhấp nhô,
Con khúm núm gõ nhịp dùi tiểu cổ.

     Đây thành-quách bao người xa cõi khổ,
     Nằm lặng im mặt ngước ngắm trời sao.
     Đã một thời thân lận-đận lao-đao,
     Quay-quắt sống nổi chìm cân tội phúc.

Chân dung họ hằn trên bia công đức,
Để lại đời như chứng tích phù vân.
Họ và tôi cùng một thuở thôn lân,
Sau và trước, trẻ già chung kiếp sống.

     Đây nấm mộ ! Những đàn ông vị vọng,
     Tước đạo đời chễm chệ chói vinh sang.
     Và này đây! kẻ cùng khốn gian nan,
     Đời tức tưởi, dập vùi thân sấp ngửa.

Đây nấm mộ! Người chiến binh khói lửa,
Mặt cười tươi ngực lấp-lánh huy-chương.
Và này đây tên vô sỉ bất lương,
Đâm bị thóc một thời gieo tai họa.

     Đây nấm mộ! Kẻ cuồng điên sa đọa,
     Bị khai trừ bởi bại họai gia phong.
     Và này đây! Cô thôn nữ trinh trong,
     Đời vắn vỏi thân hồng nhan bạc mệnh.

Đây nấm mộ! Một cụ ông hiu quạnh,
Bước cong lưng khua gậy trúc đường làng,
Và này đây! người thiếu phụ đoan trang,
Thân lặng lẽ một đời treo ngọc giá.

     Đây! Đây nữa! Những em thơ non quá,
     Rất hồn nhiên sao vội vã gẫy chồi.
     Và ô kìa! Mộ thầy giáo của tôi,
     trên di ảnh đăm-đăm nhìn nghiêm khắc.

Tất cả họ và tôi cùng thân xác,
Được sinh ra như luật  định tự nhiên.
Nhân chi sơ, mang bản chất rất hiền,
Tập  tương viễn, khác xa do hành xử.

     Và kết thúc cuộc hành trình lữ thứ
     Trả xác thân về đất cũ đồng hoang,
     Thầm cầu xin trong giây phút lâm chung,
     Tất cả họ được hồng ân cứu chuộc.

Cả tôi nữa nửa đời trong ô trọc,
Nghĩ chi đây một thân xác tội tình….

                                                  Bùi  Nghiệp
                                    Mùa thủy cường Cái sắn.

HOÀNG QUANG – KIẾP TẰM NHẢ TƠ



Bùi Nghiệp

1. Hoàng Quang – chông chênh vần thơ lục bát:
Bạn bè miệt Sài Gòn thường nói tôi với Hoàng Quang là hai kẻ tầm phào bốc phét, ngông nghênh đến ngờ nghệch.
Chả là trong nhiều cuộc gặp gỡ, trà chưa dư mà tửu chẳng hậu, chửa đến lúc men cay phừng phừng hứng khởi, Quang đã khen tôi làm văn tế ngang hàng Đồ Chiểu, tôi đáp lễ mà rằng: thơ ông nào kém  Nguyễn Du, bằng hữu day qua ngả nghiêng cười hô hố: “Mẹ! Cả lò nhà nó bắt đầu tung hứng… …”
Này nhé! Khi tôi nhập cuộc du hành thơ anh những dòng lục bát, ngôn ngữ reo như gió thổi, trải tựa mây bay, tâm đắc nhất là lối tiết nhịp. Đất nước này có cả triệu người làm thơ lục bát, ai dễ được như anh.
Lại nữa, lối tiết nhịp đôi khi cố ý độn thủ thuật đảo – nghịch phách, nét chấm phá độc đáo tạo nên một phong cách, gờn gợn nỗi chông chênh…

14 tháng 9, 2012

Chùm thơ hát nói 2




Lòng dạ.

Cá đáy nước buông mồi câu được,
Nhạn lưng trời xạ tiễn cũng rơi.
Lòng dạ người gang tấc gần thôi,
Sao khó liệu đo lường đâu xấu tốt.
Họa hổ họa bì nan họa cốt, (*)
Tri nhân tri diện bất tri tâm.
Tay bên tay trò chuyện rất gần,
Dạ gần dạ  lại  cách xa sơn hải.
Dò đáy bể biết sâu bao sải!
Đo non xanh hiểu được mấy tầm!
Có thấu chăng mưu chước tính toan?
Môi mép dẻo lưỡi uốn cong trí trá…
Thôi thôi vậy giữ lòng vàng đá!
Chữ lợi danh như mồi cá mắc câu.
Xa ngay tránh họa mang sầu!

(*) Sách Minh Tâm Bửu Giám : Vẽ cọp vẽ da khó vẽ xương,
Biết người biết mặt khó biết lòng.

Xét tật mình

Chớ xét đoán người đời này nọ,
Đừng phê bình kết án một ai.
Mắt nơi ta vướng hẳn cái gai,
Sao lấy bụi bám tròng người chì chiết.
Các nhân tự tảo môn tiền tuyết!
Bất quản tha nhân ốc thượng sương. (**)
Chẳng muốn đeo nạn kiếp tai ương,
Chớ đổ vạ lên vai người khác.
Đêm hai buổi xét mình nhiệm nhặt,
Ngày ba lần thức tỉnh ngô thân.
Chữ thuận nhu đối đáp tha nhân,
Câu khiêm hạ ân cần nhân loại.
Này tôi hỡi tật mình phiền toái,
Gột rửa đi chớ để bợn nhơ.
Ngàn năm bia miệng còn trơ!

(**) Sách Cảnh Hành Lục: Các người hãy tự quét tuyết trước cửa,
Đừng để ý đến sương bay trên  nóc nhà người khác.

Bùi Nghiệp


CHÙM THƠ HÁT NÓI.

 HÀNH THIỆN

Cuộc nhân thế bể dâu dâu bể,
Lẽ tuần hòan tan hợp hợp tan.
Xác thân như nguyệt khuyết hoa tàn,
Linh tâm hãy tích y tích cốc.
 Bình sinh hành thiện Thiên gia phúc!
Nhược thị ngu ngoan họa thọ ương.
 Lấy trí nhân dìu đỡ bốn phương,
Đem tài lộc phát ban tám hương.
Trời chúc phúc trào tuôn ơn thánh,
Đất chia phần nảy lộc đơm hoa.
Hai năm mươi an hưởng tuổi già,
Một bách tuế vui vầy Thiên quốc.
Con thuyền đạo chất đầy công đức,
Mái chèo vui khuấy nước về quê.
Mạn thuyền sóng vỗ xàng xê!...
 Bùi Nghiệp.

THUẬN MỆNH.

Then tạo hóa đóng cài thiên định,
Máy huyền cơ luân chuyển diệu kỳ.
Cuộc nhân sinh trăm tuổi là chi?
Vòng sanh tử đúng kỳ thiên định.
 Niên nguyệt nhật thì giai tải định,
Tóan lai do mệnh bất do nhân.
 Nghịch nhân thường mê mải ám tâm,
Thuận trời đất thong dong tự tại.
Kìa vũ trụ tinh vân ngàn giải,
Nọ trần hòan sinh họat ức lòai.
Vay hóa công: chữ phúc  lộc tài,
Trả nhân thế: câu nhân nghĩa trí.
Thuyền vĩnh cửu trương buồm hoan hỷ.
Xe thiên thu chuyển bánh hồi quy.
Mệnh an vui bước ra đi!...
Bùi Nghiệp.
 
 CHÍNH KỶ.

Câu khắc kỷ tu tâm dưỡng tánh,
Xét tật mình trau sửa nằm lòng.
Lưới công hầu vây bủa  uốn cong, 
Mồi danh lợi thắt vòng mời triệu.
 Lợi bất cẩu tham chung họa thiểu,
Sự năng thường nhẫn đắc thân an.
 Chữ khiêm nhu ghi dấu trong tâm,
Câu nhẫn nhịn tạc hình ngòai miệng.
Ngày bảy lượt thức lòng trau niệm,
Đêm ba lần cảnh trí ngô thân.
Nọ công khanh vấp bước phong vân,
Này áo mão tần ngần vướng bận.
Vòng danh lợi thế trần lận đận,
Bã vinh hoa bụi bặm lấm thân.
Ai ơi! Một kiếp hồng trần!...
Bùi Nghiệp.

12 tháng 9, 2012

PHÚ ANH TU XUẤT



Nhất quỷ nhì  ma,
Thứ ba tu xuất.
Lời đồn đại cứ tưởng sai ngoa!
Tiếng xầm xì ngờ đâu đúng thật .
Từ loắt choắt, đã ăn cơm chủng viện căng mồm,
Đến loai choai, còn uống nước nhà dòng nứt ruột.

Cũng ê a hôm sớm kệ kinh,
Cũng ra rả sáng chiều tu đức..
Tưởng rằng thẳng mặt, dung dăng dung dẻ theo cày!
Ngờ đâu ngóai đầu , ngủng ngủynh dùng dằng buông cuốc.
Nghịch như ma âm phủ, so ra đồng lạng đồng cân.
Phá tựa quỷ nhà chay, sánh lại ngang tài ngang sức.
Nửa người nửa ngợm kiếm lối chém vè.
Ba cọc ba đồng tìm đường tẩu thóat.

Cũng có anh: Gọi dạ bảo vâng!
Thật thà chơn chất.
Cung cúc dưới trên!
Nhịn nhường sau trước.
Cũng có anh: Mồm giải mép loa!
Khẩu xà tâm phật.
Dưới rứa trên răng (!)
Trong da ngòai ruột.
Cũng có anh: Học một hay mười,
Mẫn minh thông suốt.
Giỏi giớm thiên tài,
Hay ho kiệt xuất.

Thế nhưng :
“La loi xét la loi!”
“Lề luật là lề luật!” 
Người gọi thì nhiều, cứ sảy cứ sàng,
Kẻ chọn thì  ít, cứ đong cứ lọc.

Lũ trẻ thơ, ăn chửa biết no, lo chưa biết tới hồn nhiên!
Bày con nít, ăn không nên miếng, nói chẳng lên lời thưa thốt.
Cứ tháng tháng từng đứa đứa ra đi,
Cứ năm năm lại thằng thằng biến mất.
Đêm chưa sáng,, thảng thốt sợ bề trên!
Ngày chửa hôm, mơ màng  e giám luật.
 Muốn nên người chài lưới, sao Chúa nỡ thải hồi?
Mong thành kẻ hái liềm, sao Trời đành trục xuất?
Tuổi mười lăm mười bảy, nhà tu đá đít   quặn lòng,
Tuổi năm bốn năm ba, cửa tục  chổng mông  sốt ruột.

Mắt ướt đoanh tròng!
Cổ khô nghẹn nấc.
Đeo mang tai tiếng “Phá gia chi tử” bực mình,
Gánh ách thị phi “ Nghịch tử vô tâm” tức uất.
Có đúng chăng: Nhiều hệ lụy, đường chánh quả liêu xiêu ?
Hay chắc phải : Vụng đường tu, nẻo thế trần lập cập ?

Hòan cõi tục uống ngụm nước đục bùn,
Hồi thế trần ăn gắp cơm ô trọc.
 Thì bùn đục!  Tớ quậy  tới bến tới cùng,
Thì trọc ô! Ta chơi ra trò ra mặt.
Vang danh nhà xứ: cứng cổ –- cứng đầu!
Nổi tiếng xã thôn: rắn mày - rắn mắt.
Dương bản mặt, nháo nháo nhâng nhâng,
Vểnh râu tơ, lấc ca lấc cấc.
Ốc mượn hồn, nhăn nhở đười ươi,
Dưa lộn kiếp, láo liên khỉ đột.

Khoa môi múa mỏ Trạng Lợn –Trạng Quỳnh,
Vỗ ngực xưng tên Thần Siêu – Thánh Quát.
Học xàm tựa vẹt Thị Điểm - Xuân Hương,
Nói phét như rồng Ba giai –Tú Xuất.
Nhà thờ nhà thánh chây lười,
Hội nọ đòan kia nhếch nhác.
Lời khuyên nhủ nước đổ lá khoai,
Câu dậy răn gió bay tuốt tuột.

Chẳng khi nào dòng tộc được nở mặt nở mày!
Không có lúc mẹ cha vơi héo gan héo ruột.
Kẻ chê cười ta cần quái cười chê,
Người trách cứ ta cóc thèm cứ trách.
Thời niên thiếu, cạn tàu ráo máng rong chơi.
Lúc trưởng thành, bước quáng bước quàng trật giuộc.
Thời thời thế,  thẫn thờ đi dạo hành lang,
Thế thế thời,  tức khí lao thân chiến cuộc.

Thằng cụt thằng què,
Đứa còn đứa mất.
Thằng vào nhà lao,
Đứa về ruộng đất.

Đứa cúi đầu cạp đất, sống dang sống dở, nương rẫy cam phận ngựa trâu,
Thằng cắm cổ vượt biên, chết xuống chết lên, biển khơi đối đầu hải tặc.
Người còn tu, vất va vất vưởng, lao đao,
Kẻ đã xuất, lận đận long đong, quần quật.
Sông có khúc, người có lúc, quả mướp đắng ráng nhai,
Nước có con, gió có cơn, trái bồ hòn cố nuốt.
              Thì thôi yên phận vợ con,
Đành nhẽ cam phần gia thất.
Lo toan con trẻ đầu cuộc mở mày,
Hầu hạ mẹ cha, cuối đời nhắm mắt.

Thời  quá khứ, suy đi  đấng bậc khắt khe,
Đến bây giờ, nghĩ lại bởi ta quá quắt.
Tu mà dạ chẳng thanh, hổ phận đời tu!
Tục mà lòng không trọc, an phần cõi tục.

Tình không hẳn dây oan,
Tu chắc gì cội phúc.
Bạn đồng  sàng , nỡ nào  phân biệt dưới  trên,
Người dị mộng , lẽ đâu tị ganh sau trước.
Cơn bĩ cực biệt ly đứa mầt đứa còn.
Hồi Thái lai xum họp thằng cười thằng khóc.

Mừng mừng  mươi đầng hỏa hầu !!!
Tủi tủi trăm ngài tu xuất!!!…


Bùi Nghiệp

NÚI SẬP PHÚ.



       (Viết về giáo xứ Núi Sập, địa phận Long Xuyên))

          Vui thay Núi Sập!
          Vui thay Núi Sập!
          Xe cộ xôn xao,
          Ghe thuyền tấp nập.

Đảo hoa cương trên biển lúa dạt dào,
Đồi thổ báu giữa bình nguyên trù mật.
Sắc lục lam in bóng điểm đường mây,
Màu tử ngọc vẽ hình tô cổ tháp.

          Ngắm hướng đông nam – Cái Sắn vỗ về!
          Trông phương Tây Bắc – Ba Thê ôm ấp.
          Bởi nhân kiệt địa linh, khí thiêng sông núi đắp bồi!
          Do đất lành chim đậu, thiên hạ tứ phương hòa nhập!       

Khách thương hồ xuôi ngược hôm sớm râm ran,
Người bản xứ đi về sáng chiều lũ lượt.
Sông Thoại Giang, cà dom – xuồng lường – tam bản lượn lờ.
Dòng Vĩnh Tế, tắc ráng, tàu thủy – ghe chành nhộn nhịp.

          Trên núi bóng cả cây cao,
          Dưới thung bờ xôi ruộng mật.
Chốn thị tứ, dân Hoa – dân Ấn bán bán buôn buôn,
Ven ngoại biên, người Thái, người Miên đặt lờ đặt nọp.
Dân bản xứ cặm câu giăng lưới , nhậu nhẹt ngày ngày,
Kẻ di cư thả cá đào ao, thêm nguồn thu nhập.

Ban sáng:
          Mới thấy máy khoan đá  xình xịch, thủng thỉnh gài mìn.
          Đã nghe còi báo hú toe toe, vội vàng ẩn nấp.
          Trên triền núi, đoàn phu đá khòm lưng, xoạc cẳng đẩy xe rùa.
          Dưới bến sông, đội bốc chành ngảnh cổ, gò vai khuân đôi sọt.

Chiều hôm:
Gái dạo quanh tha thướt, rúc rích rúc ra.
Trai dìu dặt chỉnh tề, tươm ta tươm tất.
Quầy ven núi hàng hàng khô sặt gỏi bò.
Tiệm bờ sông lớp lớp la de rượu thuốc.

          Dưới xuồng ba lá, đèn bánh ú lập lòe.
          Trên quán một gian, ánh măng sông sáng quắc.
          Khúc nam ai, song lan nhịp nhịp bồi hồi!
          Câu vọng cỗ, lục huyền rưng rưng não nuột!

Nhớ xưa:
          Đường cát sỏi, vòng vèo chân núi uốn quanh.
          Lối hang dơi, thăm thẳm gió reo chóng mặt.
          Ngoài đền cụ Thoại, mái cong bốn hướng nam bắc tây đông.
          Trong điện Ngọc Hầu, giàn bệ tứ linh long ly quy hạc.

Ngày Tống Gió, bát âm kèn trống mở hội Xiên lình.
Bữa Lên Đồng, phèng mõ thanh la xuất hồn nhập cốt.
Chùa Địa Tạng, Phật tổ - Phật bà sừng sững, buổi buổi nghi ngút khói nhang.
Miếu cô hồn, bóng ma - bóng quế lượn lờ, đêm đêm cù bơ cù bất.

          Am cô Sáu sớm mai, ni nữ chày nện điểm kinh.
          Miễu ông Tà chiều tối, tăng nam mõ khua lốc cốc.
          Chốn bán buôn, giầu có lao xao!
          Nơi ngoại ải, nghèo nàn xơ xác.

Thuở ấy:
          Dân trí chửa cao.
          Học trình còn thấp

Nhà cửa tềnh toàng, hôm nay chẳng biết ngày mai
Học đường hiu quạnh, mảng chơi không màng học tập
Cha lông bông úp nơm, bắt rắn, nhậu nhẹt thả giàn,
Mẹ lởn vởn tứ sắc, số đề, nợ nần ngập mặt.

          Dăm bảy nóc nhà đạo gốc Gia Tô.
          Vài trăm mái lá chẳng Tiên chẳng Phật.
          Nhà thờ vắng bóng chủ chăn.
          Xóm đạo nép mình ngượng ngập.
          Ruộng thế trần, bát ngát thỏa no,
          Đồng truyền giáo, xác xơ đói khát.

  nay:
Năm mươi năm nhân thế đổi thay,
Nửa thế kỷ thời gian thấm thoát.
Sông Thoại giang, có ngư phủ chài người.
Đất Huệ Đức, được nông gia chuyên gặt.

          Gieo thông diệp hồng, làm nhân chứng Đức Ki-Tô
          Thấm dòng máu đỏ, Tử Đạo anh hùng son sắt
          Tháp cao vọng tiếng chuông ngân.
          Thánh đường vang ca khúc hát.
                                                Núi Sập! Núi Sập!
                                                Thật vui! Vui thật!!!
                                                                                                     
                                                                                                Bùi  Nghiệp
                                                                                       (Lễ Vượt Qua – 2006)