Trang

18 tháng 8, 2016

CHA PHAN-XI-CÔ TRƯƠNG BỬU DIỆP



(Độc vận)

Thánh hiệu Phan-sinh;
Danh xưng Bửu Diệp.
Linh mục can trường;
Chủ chăn quán triệt!

Sách ghi:
Đất An Giang- Cồn Phước , năm Bính Thân (1896 ÂL), chào đời cam khổ khởi sinh;
Vùng Tắc Sậy - Bạc Liêu, niên Bính Tuất, tử đạo đau thương tuẫn tiết.
Bốn chin mùa tín nghĩa đuốc sáng kiên trung;
Hăm hai kỷ tông đồ đăng hành mải miết.

Lúc mười hai thơ ấu, tuổi thiếu nhi vào chủng viện xứ An Giang;
Khi hai bảy trưởng thành, đời linh mục ruổi dong miền Nam Việt.
Nhận giáo sư chủng viện, đêm ngày ươm cấy tu sinh;
Lo quản sở giáo dân, năm tháng rắc gieo thông điệp.

Đất Tắc sậy chân trần thẳng bước, từ Cam Bô- Bà Đốc- Khúc Tréo… đã từng;
Miệt Giá rai thuyền gỗ xuôi chèo, đến An Hải- Đầu Sấu- Chủ Chi… đều biết.
Tin Mừng gió quyện chốn long đàm;
Lời Chúa mưa tuôn vùng hổ huyệt.

Dù chiến tranh loạn lạc, cuốc nông phu luôn vun xới cần cù;
Mặc xã hội nhiễu nhương, thuyền ngư phủ cứ bủa giăng mài miệt.
Sống trung trinh theo ý nguyện đoan thề;
Chết tín thác với lời nguyền cả quyết.

Chủ chăn dám đương đầu;
Mục tử liều đổ huyết.
Vỗ về chăm sóc thương yêu;
An ủi trông nom chí thiết.

Ngày ấy:
Lũ hung đồ bố ráp bủa vây;
Quân độc hiểm tập trung tiêu diệt.
Kẻ tín thành áp đảo không còn;
Người mộ đạo khu trừ tận triệt.

Cha hiên ngang: tất cả vô can;
Ngài dõng dạc: duy đây quy hiệp.
Xưng danh can đảm, bảy mươi vị hiện tại đâu hề;
Tuyên bố hào hùng, một mình tôi chủ trương sự việc.

Bày nhào tới trói liền;
Lũ ập vô dẫn biệt.

Đêm hôm đó:
Giáo hữu chiêm bao, bị tử nạn tàn sinh;
Hồn thiêng báo mộng, đã hành hình trảm quyết!
Xác chìm loã thễ đau thương;
Thân chúi trần truồng thống thiết.

Đó đôi tay vững chắp thản nhiên;
Kìa khuôn mặt nghiêm hình lẫm liệt.
Giào dân âm thầm khâm liệm, chốn thánh đường di xác đào mồ;
Chức sắc lặng lẽ quách quan, nơi Khúc Tréo chôn thây lấp huyệt.

Thở than khóc vị can trường;
Nấc nghẹn thương người dũng liệt.
Hạt giống đạp lấp vùi;
Mầm tươi bùng nở biếc.
….
Năm kỷ dậu chốn nhà Tắc sậy (1969) , cốt chủ chăn cải tàng đơn sơ;
Đến canh dần nơi đất Giá rai (2010), mộ linh mục trùng tu trác tuyệt.
Tận xa xôi vạn lý, người hành hương khấn nguyện tâm thành;
Nơi cách trở trăm đường, kẻ thiện tín xin ơn đặc biệt.

Hôm nay:
Bất kể dị đồng;
Không trừ khác biệt.
Ai xin ơn đều vui sướng tận cùng;
Kẻ khẩn khoản cứ hân hoan khôn xiết.

Đơn tuyên dương yêu cầu tấp nập, đợi Toà thánh châu phê;
Án Chân phước đạo đạt chất chồng, chờ Giáo Hoàng xét duyệt.
Mong đến ngày rạng rỡ huy hoàng;
Đợi đến độ vinh quang diễm tuyệt.

Tô với đất trời;
Soi hoà nhật nguyệt.
Kính trọng vô cùng;
Cha Trương Bửu Diệp!

Bùi Nghiệp

13 tháng 8, 2016

THÁNH PHAO-LÔ HẠNH (1827 – 1859)


Thánh hiệu Phao-lô;
Danh xưng Văn Hạnh.
Du đãng một vùng;
Giang hồ nhất khoảnh.

Khi xưa:
Từ Đinh Hợi (1827), đất Tân Triều –Đồng Nai hiện diện tầm thường;
Đến Kỷ Mùi (1859), miệt Chí Hoà- Chợ Quán vong thân kiêu hãnh.
Thuở hàn vi tâm địa tinh ma;
Thời niên tráng tính tình ranh mãnh.

Buông trôi xác thịt mê man;
Trói chặt tâm hồn đặc quánh.
 Gan to bướng bỉnh, tay chúa trùm nổi tiếng đầu đàn;
Khí phách ngang tàng, máu anh chị xưng danh thủ lãnh.

Đủ mưu ma gài bẫy lọc lừa
Đầy chước quỷ dở trò khoé cạnh
Nghiệp lái buôn nhè bóp cổ xiết hầu;
Nghề thương mại thói đè đầu bẻ cánh.

Thế nhưng:
Ý Chúa bày: đố kẻ bì so;
Lòng Trời đặt: nào ai ví sánh.
Hạt giống ngẫu nhiên giây phút nảy mầm;
Chồi non thong thả tháng ngày trổ nhánh.

Lời Chúa đây hằng cắm rễ dẫu mơ màng;
Tin mừng đó cứ ăn sâu dù mỏng mảnh.
Duy vài khắc, máu hào hùng can thiệp lũ cậy đông;
Đã một lần, tay nghĩa hiệp đỡ bênh người cô quạnh.

Trả lại sự công bằng;
Đền bù điều ngay ngắn.
Đến lúc hướng thiện hồi đầu;
Tới kỳ cải tà quy chánh.

Việc Trời làm khó thấu căn cơ;
Điều Chúa định  nào suy búp  nhánh.
Cả đời quẫn trí, xưa chai lỳ thể xác u mê;
Một buổi hồi tâm, nay biến đổi linh hồn thức tỉnh.

Đứa thù nhân:
Cầm dao nấp bụi, trả thù lập kế báo lũ đương quyền;
Ném đá giấu tay, rửa hận âm mưu tâu quan chấp chánh.
“Tên này thân Pháp gan lỳ;
Đứa đó Gia-tô bướng ngạnh”.

Lính sai nha lập tức còng tay;
Quân phủ vệ ào xô thúc cánh.
Nơi tra toà án, vẫn chối từ cấu kết Lang sa;
Chốn khảo pháp đình, lại xác định luôn theo đạo Thánh.

Cứ ép uổng, lấy bạc tiền muốn dụ chối đức tin;
Mong buông xuôi, dùng phú quý hòng khước từ linh ảnh .
Chẳng sợ gông xiềng gỗ vụt, gậy hèo;
Không e kềm kẹp, sắt nung, roi đánh.

Than ôi!
Công văn  vua Tự Đức châu phê;
Xử trảm kẻ tù nhân án lãnh.

Thân kiên dũng, đất Chí hoà đao phủ phân thây;
Xác trung thành, mồ Chợ quán anh hùng dứt mệnh.
Năm kỷ dậu (1909) Đức Thánh cha từng phong tước chân nhân;
Đến mậu thin (1988) Ngài Giáo chủ lại nâng hàm hiển thánh.

Gương anh dũng ngời ngời;
Thước hùng tâm vành vạch.
Hậu thế kính mừng;
Thánh Phao-lô Hạnh.


Bùi Nghiệp