Trang

22 tháng 11, 2016

CON ĐI VỀ

Lục bát thuận nghịch


1. CON ĐI VỀ
Xuôi:
Cuồng tâm  lỗi phạm ngu khờ
Thương yêu rời bỏ, lại vơ đau sầu
Đời hư dấn bước vùi sâu
Chơi hoang ngày tháng nghĩ đâu đêm tàn?
Say mê hưởng thụ son vàng
Tay vung tiền đống, ngập tràn vui ca
Điên khờ mãi cứ bùn sa
Hiền chăm quên lãng, nhập ma vào hồn
Lên đi, hết bậc còn không?
Tiền bay trơ túi, đứng tròng, chôn chân
Ngờ đâu bạn lánh  xa dần
Chờ mong chi nữa, thiết thân buông rời
Đi đường cụt ngõ chao ôi!
Suy tàn ngày tháng, kiệt hơi đường cùng
Nài xin rộng lượng tha dung
Tay chân rởi rã  bước dừng xa xa
Thôi về cứ hãy chờ cha…

Ngược: VỂ ĐI CON
Cha chờ hãy cứ về thôi
Xa xa dừng bước rã rời chân tay
Tha dung lượng rộng xin nài
Cùng đường hơi kiệt tháng ngày tàn suy
Ôi chao ngõ cụt đường đi
Rời buông thân thiết nữa chi mong chờ
Dần xa lánh bạn đâu ngờ
Chân chôn, tròng đứng, túi trơ bay tiền
Không còn bậc, hết đi lên
Hồn vào ma nhập lãng quên chăm hiền
Sa bùn cứ mãi khờ điên
Vui ca tràn ngập đống tiền vung tay
Vàng son thụ hưởng mê say
Tàn đêm đâu nghĩ tháng ngày hoang chơi
Sâu vùi bước dấn hư đời
Sầu đau vơ lại bỏ rời yêu thương
Khờ ngu phạm lỗi tâm cuồng…


Bóng Tà Dương

21 tháng 11, 2016

SẮC CHỈ PHÂN THÁP (1)




(Độc vận)

Than ôi!
Chiếu chỉ cắt chia;
Lệnh truyền phân tháp.
Bạo đế dã man;
U vương độc ác.

Ngày ấy:
Thù da trắng Phúc Thi đâm quái gở, giận cá to hạ lệnh thanh trừng;(2)
Đánh dân đen Tự Đức nổi điên khùng, băm thớt lớn  ra tay đàn áp.
-“Trừ Gia-tô tôn giáo tan đàn!
Triệt Tả Đạo nhà thờ tụ tập”.

Cuối canh thân (1860)  chuẩn bị kinh hoàng;
Nguyên tân dậu (1861) thi hành gay gắt.
Cơ mật viện hoạt động không ngừng. kiềm kê thôn ấp, hối quân binh lùng sục kỹ càng;
Lính triều ca hung hăng vô kể , bố ráp xóm làng , lùa giáo hữu tập trung nghiêm nhặt.

Tiếng khóc dậy trời cao;
Lời than bùng  đất thấp.
San bằng vườn tược, gom cho xong tín hữu hiền lành;
Đốt rụi cửa nhà, tóm bằng hết giáo dân chất phác.

Đứa đối đầu đâm hết cho xong;
Thằng chống cự giết ngay tức khắc.
Nghĩa phu thê rẽ  hẳn hết xum vầy;
Tình phụ tử chia xa hầu tan tác.
Thích má trái căn nguyên đạo giáo, nung thỏi gang đóng triện ngang mày;
In má phải gốc gác tội nhân, nướng thoi sắt đánh ghi trước mặt.

Buộc vợ lìa chồng phát vãng nơi này;
Ép cha tách mẹ lưu vong chỗ khác.
Giằng con thơ chưa dứt sữa, quăng người dưng quản thúc không màng;
Đuổi bô lão chẳng còn hơi, uống nước lã bơ vơ  mặc xác.

Đàn tín hữu:
 Kẻ cuống cuồng đào tẩu, nhắm rừng sâu co gối phóng cho nhanh;
Người vội vã chui luồn, nhè đảo vắng chống bè lao thật gấp.
Còn đa số tập trung, giao kẻ lương tiếp tục canh phòng;
Với phần đông thâu tóm, chỉ dân ngoại luôn phiên kiểm soát.

Đã lắm kẻ, buông đức tin bởi hoảng loạn tâm hồn;
Và nhiều người, buộc bỏ đạo vì đớn đau thể xác.
Nhưng đa số, dẫu cực hình giữ vững lòng son;
Lại phần đông, dù khốn nạn thề kiên dạ sắt.

Trời hỡi:
Bụi vườn cây ấy chốn nằm sương;
Chuồng gia súc là nơi gối đất.
Đào mầm cây nuốt lúc thèm thuồng;
Mót củ ráy dằn khi đói khát.

Góp rơm khô trải xuống: ấy khung giường;
Vơ rạ mục đắp lên: đây tấm bạt.
Cắn răng cầm cự mưa phùn;
Mím lợi đối đầu gió bấc.

Cũng giống nòi đất Việt, sao ma vương phán thực hiện hung tàn;
Là dòng máu nhà Nam, mà bạo đế truyền thi hành độc ác.
Quần thần nhăn mặt hoảng kinh;
Triều chính lắc đầu ngơ ngác.

Vạn niềm đau với kẻ trung kiên, nghẹn ngào đành chấp nhận, đêm âm thầm ngước mắt khấn trời cao;
Muôn nỗi đắng cho người tín trực, uất ức cố cam thân, ngày lặng lẽ cúi đầu nguyền đất thấp.
Trên thiên cung thần thánh khóc thảm thê;
Dưới hoả ngục quỷ ma cười sằng sặc.

Quả nhiên:

Toàn thế giới rẻ khinh;
Khắp vũ hoàn oán trách.
Gây nguyên nhân giặc giã tung hoành;
Tạo đầu cớ ngoại xâm thủ đắc.

Nước nguy nan bởi chỉ dụ kinh hoàng;
Nhà điêu đứng do chiếu văn tàn ác.
Những thê lương con đỏ lãnh hoàn toàn;
Bao khổ nhục dân đen đeo tất tật.

Chữ hiếu sinh vua vứt trả tổ tiên;
Câu nhân ái đế quăng hoàn xã tắc.
-Ơn vua bốn chữ đời không có, dạ vẫn đinh ninh;
Kính Chúa trăm năm đạo vẫn còn, lòng luôn khắc tạc. (3)

……

Ngày nay:
Hạt dức tin vùi lấp, lại âm thầm triển nở xum xuê;
Cây chánh đạo trổ sinh, cứ lặng lẽ vươn lên cao ngất.
Núi xương kia là tường luỹ che ngăn;
Sông máu đó chính mạch dòng tưới mát.

Trời xanh thấu suốt, thấy bất bình thuở trước đó nào quên;
Đất lục am thông, nghe oan khuất đời sau kia đố thoát.
Chỉ một kiếp phù sinh, Thiên cao thính chí, thấy đau sầu người chịu hằng ghi;
Nhưng thiên thu vĩnh viễn, địa hạ nhãn tường, nghe phẫn nộ kẻ gây vẫn cất.

Ghi công tỏ tỏ rõ ràng;
Luận tội rành rành minh bạch.

Thước Trời ngay thẳng, đo để đủ lành, ngay!
Cân Đấng công bằng, tính cho vừa thiện, ác! ...

Bóng Tà Dương – Bùi Nghiệp
(Kính các Thánh Tử đạo VN- 2016)

--------
(1)Có sách viết là Sắc chỉ Phân sáp
(2) Nguyễn Phúc Thi còn có tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, vua thứ 4 triều Nguyễn, niên hiệu Tự Đức.
(3)-Ơn vua bốn chữ đời không có
Kính Chúa trăm năm đạo vẫn còn.
Hai câu đối này xin mượn của nhà văn Đình Quang, trích trong cuốn Quê Hương yêu dấu trên trang web Nghi Lộc quê tôi.





TÌNH BAO DUNG



(Thuận nghịch độc)

Xuôi:
Thề xin quyết dứt bỏ ngông cuồng
Bước trở quay thôi, hứa nhủ lòng
Mê đắm bởi vào sa hố bẫy
Lỗi lầm do phạm vấp gai chông
Nghe ra lúc thấy cha mừng đón
Biết nhận khi nhìn chủ đợi trông
Thê thảm những ngày đêm lạc lối
Về đi hãy nhủ: Chúa chờ mong

Ngược:
Mong chờ Chúa nhủ: Hãy đi về
Lạc lối đêm ngày những thảm thê
Trông đợi chủ nhìn khi nhận biết
Đón mừng cha thấy lúc ra nghe
Chông gai vấp phạm do lầm lỗi
Bẫy hố sa vào bởi đắm mê
Lòng nhủ hứa thôi, quay trở bước
Cuồng ngông dứt bỏ quyết xin thề


Bóng Tà Dương

20 tháng 11, 2016

NGƯỜI CON LẦM LẠC



(Thuận nghịch độc)

Xuôi:
Hồn linh lạc trái lối lầm mê
Tội thú xin tình, rộng chở che
Mòn mắt dõi trông: Cha mở cổng
Nghểnh tai nghe lắng: Chủ ra hè
Khôn đâu bởi vướng ham cờ bạc?
Dại lắm do đeo thích rượu chè
Non nghĩ  biết lầm nay cải hối
Chồn chân ngã quỵ bước đi về

Ngược:
Về đi, bước quỵ ngã chân chồn
Hối cải nay lầm, biết nghĩ non
Chè rượu thích đeo do lắm dại
Bạc cờ ham vướng bởi đâu khôn
Hè ra: Chủ lắng nghe tai nghểnh
Cổng mở: Cha trông dõi mắt mòn
Che chở rộng tình xin thú tội
Mê lầm lối trái, lạc linh hồn

Bóng Tà Dương

19 tháng 11, 2016

KHẤN CHÚA XÓT THƯƠNG




(Thuận nghịch độc)

Xuôi:
Thương xót khấn nài cứ cậy trông
Thứ tha tình mở, Chúa chờ mong
Đường ngay bước dấn, nên khuyên dạ
Lối đúng đi sang, hãy nhủ lòng
Lương thiện đón này, theo tắp thẳng
Ác tàn xua nhé, chớ oằn cong
Sương mù thoát biến, mau lên nắng
Vương vấn sá gì, ngại bẫy chông

Ngược:
Chông bẫy ngại gì, sá vấn vương
Nắng lên mau biến, thoát mù sương
Cong oằn chớ nhé! Xua tàn ác
Tắp thẳng theo này! Đón thiện lương
Lòng nhủ hãy sang, đi đúng lối
Dạ khuyên nên dấn, bước  ngay đường
Mong chờ Chúa mở tình tha thứ
Trông cậy cứ nài khấn xót thương


Bóng Tà Dương

18 tháng 11, 2016

CẬY CHÚA THƯƠNG XÓT


(Thuận nghịch độc)

Xuôi:
Thương xót Chúa còn mãi chở che
Dắt dìu xin đón nhận và nghe
Đường sai bước quẩn do mù quáng
Lối lạc đi quanh bởi quặt què
Lương thiện đón vào, theo chính trực
Ác tàn xa hẳn, thoát lầm mê
Thường lo phải thắp đèn canh thức
Nương tựa vững chờ đón phúc quê

Ngược:
Quê phúc đón chờ vững tựa nương
Thức canh đèn thắp phài lo thường
Mê lầm thoát hẳn, xa tàn ác
Chính trực theo vào, đón thiện lương
Què quặt bởi quanh đi lạc lối
Quáng mú do quẩn bước sai đường
Nghe và nhận đón, xin dìu dắt
Che chở mãi còn Chúa xót thương


Bóng Tà Dương

18 tháng 8, 2016

CHA PHAN-XI-CÔ TRƯƠNG BỬU DIỆP



(Độc vận)

Thánh hiệu Phan-sinh;
Danh xưng Bửu Diệp.
Linh mục can trường;
Chủ chăn quán triệt!

Sách ghi:
Đất An Giang- Cồn Phước , năm Bính Thân (1896 ÂL), chào đời cam khổ khởi sinh;
Vùng Tắc Sậy - Bạc Liêu, niên Bính Tuất, tử đạo đau thương tuẫn tiết.
Bốn chin mùa tín nghĩa đuốc sáng kiên trung;
Hăm hai kỷ tông đồ đăng hành mải miết.

Lúc mười hai thơ ấu, tuổi thiếu nhi vào chủng viện xứ An Giang;
Khi hai bảy trưởng thành, đời linh mục ruổi dong miền Nam Việt.
Nhận giáo sư chủng viện, đêm ngày ươm cấy tu sinh;
Lo quản sở giáo dân, năm tháng rắc gieo thông điệp.

Đất Tắc sậy chân trần thẳng bước, từ Cam Bô- Bà Đốc- Khúc Tréo… đã từng;
Miệt Giá rai thuyền gỗ xuôi chèo, đến An Hải- Đầu Sấu- Chủ Chi… đều biết.
Tin Mừng gió quyện chốn long đàm;
Lời Chúa mưa tuôn vùng hổ huyệt.

Dù chiến tranh loạn lạc, cuốc nông phu luôn vun xới cần cù;
Mặc xã hội nhiễu nhương, thuyền ngư phủ cứ bủa giăng mài miệt.
Sống trung trinh theo ý nguyện đoan thề;
Chết tín thác với lời nguyền cả quyết.

Chủ chăn dám đương đầu;
Mục tử liều đổ huyết.
Vỗ về chăm sóc thương yêu;
An ủi trông nom chí thiết.

Ngày ấy:
Lũ hung đồ bố ráp bủa vây;
Quân độc hiểm tập trung tiêu diệt.
Kẻ tín thành áp đảo không còn;
Người mộ đạo khu trừ tận triệt.

Cha hiên ngang: tất cả vô can;
Ngài dõng dạc: duy đây quy hiệp.
Xưng danh can đảm, bảy mươi vị hiện tại đâu hề;
Tuyên bố hào hùng, một mình tôi chủ trương sự việc.

Bày nhào tới trói liền;
Lũ ập vô dẫn biệt.

Đêm hôm đó:
Giáo hữu chiêm bao, bị tử nạn tàn sinh;
Hồn thiêng báo mộng, đã hành hình trảm quyết!
Xác chìm loã thễ đau thương;
Thân chúi trần truồng thống thiết.

Đó đôi tay vững chắp thản nhiên;
Kìa khuôn mặt nghiêm hình lẫm liệt.
Giào dân âm thầm khâm liệm, chốn thánh đường di xác đào mồ;
Chức sắc lặng lẽ quách quan, nơi Khúc Tréo chôn thây lấp huyệt.

Thở than khóc vị can trường;
Nấc nghẹn thương người dũng liệt.
Hạt giống đạp lấp vùi;
Mầm tươi bùng nở biếc.
….
Năm kỷ dậu chốn nhà Tắc sậy (1969) , cốt chủ chăn cải tàng đơn sơ;
Đến canh dần nơi đất Giá rai (2010), mộ linh mục trùng tu trác tuyệt.
Tận xa xôi vạn lý, người hành hương khấn nguyện tâm thành;
Nơi cách trở trăm đường, kẻ thiện tín xin ơn đặc biệt.

Hôm nay:
Bất kể dị đồng;
Không trừ khác biệt.
Ai xin ơn đều vui sướng tận cùng;
Kẻ khẩn khoản cứ hân hoan khôn xiết.

Đơn tuyên dương yêu cầu tấp nập, đợi Toà thánh châu phê;
Án Chân phước đạo đạt chất chồng, chờ Giáo Hoàng xét duyệt.
Mong đến ngày rạng rỡ huy hoàng;
Đợi đến độ vinh quang diễm tuyệt.

Tô với đất trời;
Soi hoà nhật nguyệt.
Kính trọng vô cùng;
Cha Trương Bửu Diệp!

Bùi Nghiệp

13 tháng 8, 2016

THÁNH PHAO-LÔ HẠNH (1827 – 1859)


Thánh hiệu Phao-lô;
Danh xưng Văn Hạnh.
Du đãng một vùng;
Giang hồ nhất khoảnh.

Khi xưa:
Từ Đinh Hợi (1827), đất Tân Triều –Đồng Nai hiện diện tầm thường;
Đến Kỷ Mùi (1859), miệt Chí Hoà- Chợ Quán vong thân kiêu hãnh.
Thuở hàn vi tâm địa tinh ma;
Thời niên tráng tính tình ranh mãnh.

Buông trôi xác thịt mê man;
Trói chặt tâm hồn đặc quánh.
 Gan to bướng bỉnh, tay chúa trùm nổi tiếng đầu đàn;
Khí phách ngang tàng, máu anh chị xưng danh thủ lãnh.

Đủ mưu ma gài bẫy lọc lừa
Đầy chước quỷ dở trò khoé cạnh
Nghiệp lái buôn nhè bóp cổ xiết hầu;
Nghề thương mại thói đè đầu bẻ cánh.

Thế nhưng:
Ý Chúa bày: đố kẻ bì so;
Lòng Trời đặt: nào ai ví sánh.
Hạt giống ngẫu nhiên giây phút nảy mầm;
Chồi non thong thả tháng ngày trổ nhánh.

Lời Chúa đây hằng cắm rễ dẫu mơ màng;
Tin mừng đó cứ ăn sâu dù mỏng mảnh.
Duy vài khắc, máu hào hùng can thiệp lũ cậy đông;
Đã một lần, tay nghĩa hiệp đỡ bênh người cô quạnh.

Trả lại sự công bằng;
Đền bù điều ngay ngắn.
Đến lúc hướng thiện hồi đầu;
Tới kỳ cải tà quy chánh.

Việc Trời làm khó thấu căn cơ;
Điều Chúa định  nào suy búp  nhánh.
Cả đời quẫn trí, xưa chai lỳ thể xác u mê;
Một buổi hồi tâm, nay biến đổi linh hồn thức tỉnh.

Đứa thù nhân:
Cầm dao nấp bụi, trả thù lập kế báo lũ đương quyền;
Ném đá giấu tay, rửa hận âm mưu tâu quan chấp chánh.
“Tên này thân Pháp gan lỳ;
Đứa đó Gia-tô bướng ngạnh”.

Lính sai nha lập tức còng tay;
Quân phủ vệ ào xô thúc cánh.
Nơi tra toà án, vẫn chối từ cấu kết Lang sa;
Chốn khảo pháp đình, lại xác định luôn theo đạo Thánh.

Cứ ép uổng, lấy bạc tiền muốn dụ chối đức tin;
Mong buông xuôi, dùng phú quý hòng khước từ linh ảnh .
Chẳng sợ gông xiềng gỗ vụt, gậy hèo;
Không e kềm kẹp, sắt nung, roi đánh.

Than ôi!
Công văn  vua Tự Đức châu phê;
Xử trảm kẻ tù nhân án lãnh.

Thân kiên dũng, đất Chí hoà đao phủ phân thây;
Xác trung thành, mồ Chợ quán anh hùng dứt mệnh.
Năm kỷ dậu (1909) Đức Thánh cha từng phong tước chân nhân;
Đến mậu thin (1988) Ngài Giáo chủ lại nâng hàm hiển thánh.

Gương anh dũng ngời ngời;
Thước hùng tâm vành vạch.
Hậu thế kính mừng;
Thánh Phao-lô Hạnh.


Bùi Nghiệp

9 tháng 3, 2016

KINH BÁCH DỤ 96-98


96. Giả Mù

Xưa đám thợ lao công khổ sở
Bởi ông vua đày đủ trăm đuờng
Bao người nhuốm bệnh thảm thương
Chết trong oan ức thây vương núi rừng

Có một kẻ nuớc cùng nghĩ kế
Giả mù đui cốt để về nhà
Quả tình nô dịch đuợc tha
Nhiều anh bắt chước toan đà làm theo

Đang bàn tính rủ nhau móc mắt
Có nguời khôn ra mặt can ngăn
Khi mù sẽ khổ gấp trăm
Suốt đời chịu cảnh tối tăm sao đành
oOo
Người cõi tục tham danh háo lợi
Nên dối gian phạm giới không tu
Nội tâm u tối đui mù
Làm sao giải thoát thiên thu luân hồi

97. Cướp Áo Lông Dê

Có hai kẻ đồng hành bất chợt
Cuớp đón đầu trấn lột tư trang
Một anh nhanh nhẹn vội vàng
Núp trong bụi rậm duới tàn cây to

Anh còn lại chần chờ bị tóm
Chiếc áo lông giựt gọn khỏi tay
Bên trong đuờng chỉ áo may
Có vài đồng bạc giấu ngay kỹ càng

Nguời bị nạn xin  van cuờng đạo
Chuộc một đồng lấy áo được không?
Bọn này quát hỏi cuồng ngông
Tiền đâu mà có lại mong chuộc nào

 Tiền tôi giấu trong bâu cổ áo
Đích vàng y đố bảo sai lầm
Đằng kia có thợ kim hoàn
Không tin cứ lại hỏi toan biết liền.
oOo


Tu tập tễnh chưa bền công đức
Làm sao đương ma trược não phiền
Chính mình làm hại bản thân
Thêm gây tổn thất  họa lan sang nguời

98. Ðứa Nhỏ Bắt Rùa

Xưa có trẻ đùa chơi bãi trống
Bắt được rùa ẩn chốn bờ đê
Muốn đem xẻ thịt mang về
Nghĩ không ra việc giết đi kiểu nào

Có người lạ nhìn vào chỉ chước
Cứ đem dìm xuống nước chết thôi
Cả tin nhẹ dạ nghe lời
Rùa kia gặp nuớc xoải bơi thoát nàn
oOo
Tu Phật pháp thuyền tâm sắp cập
Lại nghe lời đường mật cả tin
Ma vương dụ dỗ sắc tình
Chung quy hỏng hết căn lành biến tan

HẾT

Nói 100 bài nhưng Bộ kinh Bách Dụ chỉ có 98 bài thí dụ của Phật nói, do Ngài Pháp Sư Tăng Già Tư Na sao lục trong kinh tạng. Hai thí dụ rốt sau: "Thuốc hay hòa trong đường phèn", "Dùng lá gói thuốc A Dà Ðà" là của Pháp Sư tự soạn, để tổng dụ cho diệu lý đủ trong những thí dụ trên. Một đời thuyết giáo trong bốn mươi chín năm, tùy theo căn cơ chúng sanh sai khác, Ðức Phật nói ra vô lượng Pháp môn không đồng. Khi nói thấp, khi nói cao, từ dễ lần đến khó, đem gần tỉ dụ xa. Chung qui chỉ hướng về một mục đích duy nhất là làm cho chúng sanh tự giác ngộ bản tánh sáng suốt của mình….

99-100 Lời Cuối Quyển

Của nhà biên dịch Pháp Sư Tăng Già Tu Na

Tôi biên dịch bổn kinh Đức Phật
Để ví von chánh pháp mênh mang
Xem qua chẳng mấy nghiệm trang
Nhưng suy nghiệm thấu ẩn tàng thực trung

Như thuốc đắng trộn chung đường ngọt
Khi ăn vào bệnh bớt chóng qua
Lá cây bọc thuốc Dà Đà
Đem về giải độc vỏ mà bỏ đi

Chuyện vui vẻ như bì lá gói
Ở bên trong ý đợi duyên chờ
Gẩm suy thí dụ đừng lơ
Lý màu tâm bệnh tiễu trừ khỏi ngay

_______
Kiểm thảo trọn tập xong ngày 7 tháng 11 Âm Lịch (1958)
Thượng Toạ: Thích Trí Tịnh
Kiểm duyệt số 2598/ XB ngày 17/12/1959

Chuyển dệt thơ: Bóng Tà Dương – Bùi Nghiệp