Trang

7 tháng 6, 2014

HIỆU TRIỆU HỊCH VĂN.




Trang sử viết:

Bình Trọng vị quốc hy sinh;
Lê Lai vong thân quyết tử.
Yết Kiêu đục thuyền  Mông Cổ;
Trung Trực thiêu hạm Lang Sa.
Dòng Âu Lạc từ thời khởi điểm, mấy ngàn năm xây dựng nước nhà;
Giống tiên rồng thuở lúc manh nha, bao thế kỷ tô bồi dân tộc.
Kìa Đinh-  Lý- Trần-  Lê…,hằng chăm chú  giữ gìn bao bọc;
Nọ Tống- Nguyên- Minh-  Mãn…,những  lăm le xâm lược bất thành.
Này Sầm Nghi Đống thắt cổ trên cành;
Đó Ô Mã Nhi khom mình dưới bệ.
Thoát Hoan quăng giáp chui luồn, lạc phách bay hồn run thỏ đế;
Sĩ Nghị cuốn cờ tẩu thoát, thay màu đổi sắc hoá kỳ nhông.
Hầu Nhân Bảo, nơi Chi lăng ải đoạn hồn;
Lưu Hoằng Thao, chốn Bạch Đằng giang phơi xác.
…………..
Dòng lịch sử kìa bia đã tạc;
Vết thời gian đó sách còn rành.
Ngẩng cao lên chả thẹn với trời xanh;
Cúi thấp xuống không buồn cùng đất lục.

Hôm nay!
Lớp chúng ta sinh thời loạn lạc;
Thế hệ mình gặp buổi gian nan.
Ngó chân chồn đi lại nghênh ngang;
Nghe lưỡi cú ba hoa điên đảo.
Hàm ngao cẩu khinh thường xự xạo;
Lưỡi hồ ly rẻ rúng điêu ngoa.
Đem to hiếp bé gây nạn can qua;
Lấy thịt đè người tạo cơn chinh chiến.
Không còn nhớ ngàn năm xưa, máu Bắc gian nhuộm hồng sông biển;
Cố tình quên thiên kỷ cũ, xương Tàu ác phơi trắng ải quan.

Thế nên:
Ngày tới mỗ quên ăn;
Đêm về ta mất ngủ.
Trào nước mắt buồn phiền ủ rũ;
Ứa dòng châu não nuột sầu u.
Lòng phẫn hận, mong lột da xẻ thịt quân thù;
Dạ hờn căm, muốn tắm huyết nhai gan lũ giặc.
Dù thi thể da ngựa bọc thây cuối đất;
Dẫu hình hài  máu rồng tràn sũng đầu sông.

Ngẫm xem:
Trông tổ quốc nhục, sao nằm nhìn thanh thản tựa không;
Biết sơn hà nguy, cứ đứng ngó bằng chân như vại.
Thân giữ quan to, thấy rõ gai mắt trái tai chẳng ngại;
Xác làm tướng lớn,ngồi ỳ rung đùi vỗ ngực mà ngơ.
Còn thong dong thích thú bạc cờ;
Lại quyến luyến đam mê trà tửu.
Đêm ca hát mê say lưỡi líu;
Ngày rượu chè ngả ngớn mồm oang.
Lọng ô dù há hứng nổi bom càn?
Cựa gà trống nào đâm thâu thiết giáp!
Tiền một đống sao mua xong đầu giặc;
Chó hàng bày đố đuổi nổi chân thù.
Tiếng sáo hay bên ghế cọp, ỏn ẻn tựa ruồi bu;
Lời ca ngọt vẳng tai trâu, vo ve như muỗi quyện.

Hỏi rằng:
Khi quân thù tráo trở chiến tranh, vượt ranh giới  ào ào xông đến;
Lúc kẻ địch cố tình binh biến, lấn biên cương ồ ạt tràn vào.
Mộ tổ tiên chà đạp xới đào;
Miếu xã tắc đẩy xô vùi lấp.
Toàn quyến thuộc tiêu vong tất tật;
Mọi gia đình tận triệt sành sanh.
Vườn ruộng kia mất sạch, dân tình gào uất thấu trời xanh;
Lộc tài đó bay vèo, con cháu khóc hờn đay đất xám.
Vợ nô dịch nhục nhằn vô hạn;
Con tôi đòi phẫn hận khôn lường .
Thước nào đo để hết mọi tai ương;
Thưng nào đếm cho xong bao hiểm hoạ.

Bởi thế:
Căng hốc mắt nhìn ra biển cả;
Mở vành tai nghe tận non cao.
Quân Tàu ô nơi hải phận nháo nhào;
Lũ Bắc xảo chốn biên thuỳ hau háu.
Ngay lập tức thắt lưng buộc bụng, lập hội Diên Hồng, thề truy giặc ngăn đường cuồng cẩu;
Hãy cấp thời sát cánh kề vai, tựu tề Như Nguyệt, quyết diệt thù cản lối độc xà.
Tuyển binh hùng ưu tú dấn xông pha;
Chiêu tướng giỏi kỳ tài băng xuất trận.
Đánh cho vỡ mộng hão huyền, lăm le chốn biển đông muốn lấn;
Trừ cho tan mơ ảo vọng, chờ chực nơi quan ải hòng xâm.
Nó chớ trách, xưa ôn hoà kết mối giao tâm;
Mi đừng than, nay phẫn nộ cắt phần hữu hảo.
Khâu miệng giặc đừng oang lếu láo;
Khớp mồm thù hết rống huyênh hoang.
Non sông hoàn giải đất nhà Nam;
Biển đảo nhập vùng trời xứ Việt.
Cho bia đá tạc sâu hằn khí tiết;
Để sử xanh ghi rõ đậm hào hùng.
Vào miếu đền không hổ với cha ông;
Đến lăng mộ chẳng sầu cùng tiên tổ.

Chư dân thấy tỏ;
Toàn quốc nghe tường!!

Bùi Nghiệp



Không có nhận xét nào: