(17 năm nhớ mẹ 11.4.1996 ĂL)
Thôi là hết,
Mẹ đã chết.
Hiu hắt dòng sông,
Tan tác cánh đồng.
Một
cõi trần ai, thương thương thân cò lận đận;
Trăm
năm phù thế, héo uá xác vạc long đong.
Khi xưa:
Nhập
giống nòi, trang nữ nhi nước Việt;
Chào
nhân loại, dòng lịch sử Lạc Hồng.
Câu
huấn tử chi sơ, thấm nhuần từ thai dưỡng!
Chữ
giáo nhi trứng nước, nhân thức tại cung lòng.
Bà rủ rỉ cũng nằm lòng câu tứ đức;
Ông ngâm nga nên răm rắp chữ tam
tòng.
Chẳng lớp trường mà thông ca vè kim
cổ;
Không chữ nghĩa lại thạo kinh hạt
ngoài trong.
Bấm
đốt ngón tay: đo- đong- cân- lạng;
Thập
phân lẩm nhẩm: xu- cắc- hào- đồng.
Chẳng
gấm- vóc- nhiễu- điều tô dáng vẻ;
Chỉ
vôi- trầu- cau- vỏ thắm khuôn dung.
Mười sáu tuổi xuất giá vu quy: về tổ
nội;
Đẫy một năm tòng phu thai nghén: trẻ
đầu lòng.
Ru ru – rín rín!
Bế bế - bồng bồng!
Tay đưa võng à ơi bống ngủ!
Chân
đạp xa quay nhịp đánh vòng.
Đồng
sâu đồng cạn, mạ gánh lon ton, đầu khăn mỏ qụa;
Chái
bếp hiên nhà, ù ì xay thóc, cánh áo nâu sồng.
Sáng bèo trưa cám, rổ sảo khoai, quần
xăn móng lợn!
Tối giã trưa xay, nia mẹt gạo, đáy
thắt lưng ong.
Thúng mủng chợ phiên, đồng quà nựng trẻ;
Kẽo cà quang gánh, be rượu chiều chồng.
Nhịn
miếng giữa làng, tiếc chi men nồng đình xã;
Cam sàng xó bếp,
chiu chắt miếng ngọt tộc dòng.
Lăn
lội quản chi mưa nắng;
Tảo
tần nào ngại gió đông.
Sinh con:
Cưu mang chín tháng bát cơm kham
khổ;
Bú mớm ba năm mạch sữa cạn dòng
Nào những lúc trái gió trở trời, cơn
đau cơn ốm;
Nọ những khi thay mưa đổi nắng,
trúng nước trúng phong.
Ôm
con đỏ lòng đau xát muối;
Ẳm
trẻ thơ dạ rối bòng bong.
Lưng
sẩy rôm, hào bạc trứng gà đánh cảm;
Trán
hấp nóng, hương nhu bồ kết lau cùng.
Ngăn
lỉnh kỉnh: Áo bạc- thần sa- linh đan- chánh khí;
Chái
um tùm: Mền trầu- rau má- kinh giới- xương xông.
Thang đồng ấu hiệu lang tàu:sinh -
cam -thục – táo;
Chứng tiểu nhi tiệm thuốc bắc: hoàn
- tán - cao – đơn.
Ngày tất tả dầm mưa giãi nắng;
Đêm mắt chong ấp lạnh quạt nồng.
Ngờ đâu:
Cơ trời vận nước;
Lửa dậy gió bùng.
Ai
khơi chinh chiến chia hai miền Nam Bắc?
Ai
mở phân tranh cắt nửa ngã non sông?
Thảm
thiết dân đen, lìa xa quê cha đất tổ;
Thương
thay con đỏ, bái biệt mồ mả tộc dòng.
Hai bàn tay trắng;
Một cuộc cờ không.
Vai
quang gánh cha dắt anh: ly hương ly tán;
Nách
xách mang mẹ dìu chị: bỏ xứ bỏ đồng.
Cơn
bĩ cực đong đầy cam khổ;
Hồi
thái lai vơi bớt nguồn cơn.
Lại khởi công, phát hoang- đào ao- đắp
thổ;
Lại lập nghiệp, cha cày- mẹ cấy- vun
trồng.
Vách đất mỏng đã ngăn ngừa khi chướng
khí;
Mái rạ thưa cũng che chở lúc oi nồng.
Đến ngày:
Con khôn lớn thân phổng phao chân nhảy;
Mẹ già nua mắt mờ đục lưng cong.
Ghi giỗ chạp giấy rách giữ lề, mâm
cơm nậm rượu;
Nhớ tết tư đất lề quê thói, thịt lợn
bánh chưng.
Con nhảy múa tung tăng cùng xóm ngõ;
Mẹ nhìn vui khấp khởi với làng thôn.
Con
đi học nhập trường chân khép nép;
Mẹ
nhìn qua khe vách dạ phập phồng.
Từng
câu chữ ê a, khai tâm hồn con trẻ;
Mỗi
văn bài ra rả, mở trí tuệ nhi đồng…
Ngày
qua - tháng lại!
Xuân
– hạ - thu – đông.
Chuyến tàu máy đưa con lên tỉnh học;
Ngọn đèn chai nơi mẹ tiễn quê mong.
Giọt nước mắt cố cầm nơi ngấn mẹ;
Quẩy hành trang phơi phới tự lòng
con.
Tình
mẫu tử chất đầy trong rương kín;
Sao
lòng con nhẹ tếch chốn trường son.
Thế
giới mẹ chính vườn rau- liếp cà tấm mẳn;
Bầu
trời con là núi biếc- sông rộng mênh mông.
Mẹ vò võ tảo tần thắt lưng buộc bụng;
Con thênh thang bay nhảy thỏa chí vừa
lòng.
Cầu ao soi bóng xác già nua héo hắt;
Bóng
vách đèn khêu hình bà lão lom khom.
…………………………………………….
Thương thay:
Chiều hôm nắng quái;
Bóng ngả ngô đồng.
Chưa đền bù, công ơn cù lao chín chữ;
Chẳng báo đáp, ân nghĩa cúc dục nghìn trùng.
Lá
về cội một đêm sương nhẹ hẫng;
Nước
xuôi nguồn một khắc gió thinh không.
Một
mẹ dốt nuôi mười con vuông vắn;
Mười
con khôn dưỡng một mẹ đâu tròn.
Đàn cháu dại nhớ bà đai khăn trắng;
Lũ con thơ thương mẹ ứa lệ dòng.
Trăm năm phù thế hề viên mãn!
Một cội huyên già về tổ tông!
Lòng
đau ruột thắt;
Nhớ
mẹ khôn cùng…
Bùi
Nghiệp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét