秋夜其二
阮攸
白露為霜秋氣深,
江城草木共蕭森。
剪燈獨照初長夜
握髮經懷末人心。
千里江山頻悵望
四時煙景獨沉吟。
早寒已覺無衣苦
何處空閨催暮砧。
剪燈獨照初長夜
握髮經懷末人心。
千里江山頻悵望
四時煙景獨沉吟。
早寒已覺無衣苦
何處空閨催暮砧。
PHIÊN
ÂM
Bạch lộ vi sương thu khí
thâm,
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ
Ác phát kinh hoàn mạt nhật tâm
Thiên lý giang sơn tần trướng vọng
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm.
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
Hà xứ không khuê thôi mộ châm?
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ
Ác phát kinh hoàn mạt nhật tâm
Thiên lý giang sơn tần trướng vọng
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm.
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ,
Hà xứ không khuê thôi mộ châm?
Dịch nghĩa:
ĐÊM THU
Móc trắng thành sương,
tiết thu đã sâu.
Cây cỏ quanh thành bên sông, trông đến tiêu điều!
Khêu ngọn đèn cho chiếu vào đêm dài mới bắt đầu.
Búi tóc mà lo cho chí nguyện những ngày tàn tạ.
Non sông ngàn dặm cứ nhìn là thấy buồn.
Phong cảnh bốn mùa, riêng mình ngậm ngùi.
Mới rét, đã khổ vì không áo,
Mà nơi đâu tiếng đập vải của người khuê phụ rộn rã trong chiều hôm?
Cây cỏ quanh thành bên sông, trông đến tiêu điều!
Khêu ngọn đèn cho chiếu vào đêm dài mới bắt đầu.
Búi tóc mà lo cho chí nguyện những ngày tàn tạ.
Non sông ngàn dặm cứ nhìn là thấy buồn.
Phong cảnh bốn mùa, riêng mình ngậm ngùi.
Mới rét, đã khổ vì không áo,
Mà nơi đâu tiếng đập vải của người khuê phụ rộn rã trong chiều hôm?
Chú thích:
-
Tiễn đăng: Cắt hoa đèn để cho ngọn lửa cháy sáng. Có lẽ tác giả liên tưởng đến
hai câu thơ của Lý Thương Ẩn: "Hà đương cộng tiễn tây song chúc, Khước
thoại Ba Sơn dạ vũ thì" (Bao giờ cùng nhau cắt hoa đèn nơi tây song, Kể
cho nhau nghe nỗi lòng nơi Ba Sơn lúc đêm mưa lạnh).
-
Ác phát: Theo điển "ác phát thổ bộ" vắt tóc nhả cơm: Chu Công là
một đại thần của nhà Chu rất chăm lo việc nước. Đang ăn cơm, có khách đến nhả
cơm ra tiếp; đang gội đầu có sĩ phu tới, liền vắt tóc ra đón, hết người này đến
người khác, ba lần mới gội đầu xong. Câu thơ của Nguyễn Du ý nói: Chí nguyện
được đem ra giúp nước như Chu Công, cuối cùng không biết có toại nguyện hay
chăng. Nghĩ đến lòng vô cùng lo ngại.
Dịch thơ:
ĐÊM
THU (Bài 2) - Nguyễn Hữu Thăng dịch)
Sương trắng cuối thu
chuyển mịt mờ
Quanh thành cây cỏ dáng
gầy trơ
Đêm dài soi bóng đèn leo
lét
Ngày cuối búi đầu dạ ngẩn
ngơ
Nghìn dặm giang sơn hằng
vọng ngóng
Bốn mùa mây khói nặng sầu
lo
Rét về không áo người run
khổ
Chày tối phòng khuê giục
nỗi chờ.
ĐÊM
THU (Phóng dệt: Bongtaduong)
Sương trắng tàn thu phủ mịt mờ
Bên thành cây cỏ rũ tiêu sơ
Khêu đèn ngọn tỏ soi nhòa nhạt
Búi tóc tròn vo quấn thẫn thờ
Ngàn dặm non sông nhìn ủ rũ
Bốn mùa phong cảnh ngắm chơ vơ
Phong phanh giá lạnh mình run rẩy
Hồi nhớ khuê môn mỏi mắt chờ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét