Trang

30 tháng 11, 2012

MẸ QUÊ.


                       
            Thôi là hết,
            Mẹ đã chết.
            Hiu hắt dòng sông,
            Tan tác cánh đồng.
Một cõi trần ai, thương thương thân cò lận đận;
Trăm năm phù thế, héo uá xác vạc long đong.

Khi xưa:
Nhập giống nòi, trang nữ nhi nước Việt;
Chào nhân loại, dòng lịch sử Lạc Hồng.
Câu huấn tử chi sơ, thấm nhuần từ thai dưỡng!
Chữ giáo nhi trứng nước, nhân thức tại cung lòng.
            Bà rủ rỉ cũng nằm lòng câu tứ đức;
            Ông ngâm nga nên răm rắp chữ tam tòng.
            Chẳng lớp trường mà thông ca vè kim cổ;
            Không chữ nghĩa lại thạo kinh hạt ngoài trong.
Bấm đốt ngón tay: đo- đong- cân- lạng;
Thập phân lẩm nhẩm: xu- cắc- hào- đồng.
Chẳng gấm- vóc- nhiễu- điều tô dáng vẻ;
Chỉ vôi- trầu- cau- vỏ thắm khuôn dung.

            Mười sáu tuổi xuất giá vu quy: về tổ nội;
            Đẫy một năm tòng phu thai nghén: trẻ đầu lòng.
            Ru ru – rín rín!
            Bế bế - bồng bồng!
Tay đưa võng  à ơi bống ngủ!
Chân đạp xa quay nhịp đánh vòng.
Đồng sâu đồng cạn, mạ gánh lon ton, đầu khăn mỏ qụa;
Chái bếp hiên nhà, ù  ì  xay thóc, cánh áo nâu sồng.
            Sáng bèo trưa cám, rổ sảo khoai, quần xăn móng lợn!
            Tối giã trưa xay, nia mẹt gạo, đáy thắt lưng ong.
            Thúng mủng chợ phiên, đồng quà nựng trẻ;
            Kẽo cà quang gánh, be rượu chiều chồng.
Nhịn miếng giữa làng, tiếc chi men nồng đình xã;
Cam sàng xó bếp, chiu chắt miếng ngọt tộc dòng.
Lăn lội quản chi mưa nắng;
Tảo tần nào ngại gió đông.
            Sinh con:
            Cưu mang chín tháng bát cơm kham khổ;
             Bú mớm ba năm mạch sữa cạn dòng
            Nào những lúc trái gió trở trời, cơn đau cơn ốm;
            Nọ những khi thay mưa đổi nắng, trúng nước trúng phong.
Ôm con đỏ lòng đau xát muối;
Ẳm trẻ thơ dạ rối bòng bong.
Lưng sẩy rôm, hào bạc trứng gà đánh cảm;
Trán hấp nóng, hương nhu bồ kết lau cùng.
Ngăn lỉnh kỉnh: Áo bạc- thần sa- linh đan- chánh khí;
Chái um tùm: Mền trầu- rau má- kinh giới- xương xông.
            Thang đồng ấu hiệu lang tàu:sinh - cam -thục – táo;
            Chứng tiểu nhi tiệm thuốc bắc: hoàn - tán - cao – đơn.
            Ngày tất tả dầm mưa giãi nắng;
            Đêm mắt chong ấp lạnh quạt nồng.

            Ngờ đâu:
            Cơ trời vận nước;
            Lửa dậy gió bùng.
Ai khơi chinh chiến chia hai miền Nam Bắc?
Ai mở phân tranh cắt nửa ngã non sông?
Thảm thiết dân đen, lìa xa quê cha đất tổ;
Thương thay con đỏ, bái biệt  mồ mả tộc dòng.
            Hai bàn tay trắng;
            Một cuộc cờ không.
Vai quang gánh cha dắt anh: ly hương  ly tán;
Nách xách mang mẹ dìu chị: bỏ xứ bỏ đồng.
Cơn bĩ cực đong đầy cam khổ;
Hồi thái lai vơi bớt nguồn cơn.
            Lại khởi công, phát hoang- đào ao- đắp thổ;
            Lại lập nghiệp, cha cày- mẹ cấy- vun trồng.
            Vách đất mỏng đã ngăn ngừa khi chướng khí;
            Mái rạ thưa cũng che chở lúc oi nồng.

            Đến ngày:
            Con khôn lớn thân phổng phao chân nhảy;
            Mẹ già nua mắt mờ đục lưng cong.
            Ghi giỗ chạp giấy rách giữ lề, mâm cơm nậm rượu;
            Nhớ tết tư đất lề quê thói, thịt lợn bánh chưng.
            Con nhảy múa tung tăng cùng xóm ngõ;
            Mẹ nhìn vui khấp khởi với làng thôn.
Con đi học nhập trường chân khép nép;
Mẹ nhìn qua khe vách dạ phập phồng.
Từng câu chữ ê a,  khai tâm hồn con trẻ;
Mỗi văn bài ra rả,  mở trí tuệ nhi đồng…

Ngày qua  - tháng lại!
Xuân – hạ - thu – đông.

            Chuyến tàu máy đưa con lên tỉnh học;
            Ngọn đèn chai  nơi mẹ tiễn quê mong.
            Giọt nước mắt cố cầm nơi ngấn mẹ;
            Quẩy hành trang phơi phới tự lòng con.
Tình mẫu tử chất đầy trong rương kín;
Sao lòng con  nhẹ tếch chốn trường son.
Thế giới mẹ chính vườn rau- liếp cà tấm mẳn;
Bầu trời con là núi biếc- sông rộng mênh mông.
            Mẹ vò võ tảo tần thắt lưng buộc bụng;
            Con thênh thang bay nhảy thỏa chí vừa lòng.
            Cầu ao soi bóng xác già nua héo hắt;
            Bóng vách đèn khêu hình bà lão lom khom.
            …………………………………………….
            Thương thay:
            Chiều hôm nắng quái;
            Bóng ngả ngô đồng.
            Chưa đền bù, công ơn cù lao chín chữ;
            Chẳng báo đáp,  ân nghĩa cúc dục nghìn trùng.
Lá về cội một đêm sương nhẹ hẫng;
Nước xuôi nguồn một khắc gió thinh không.
Một mẹ dốt nuôi mười con vuông vắn;
Mười con khôn dưỡng một mẹ đâu tròn.
            Đàn cháu dại nhớ bà đai khăn trắng;
            Lũ con thơ thương mẹ ứa  lệ dòng.
            Trăm năm phù thế hề viên mãn!
            Một cội huyên già về tổ tông!
Lòng đau ruột thắt;
Nhớ mẹ khôn cùng…

Bùi Nghiệp.
(16 năm nhớ mẹ)

29 tháng 11, 2012

ĂN CƠM TRƯỚC KẺNG


 Ngàn vàng chăm chắm giữ gìn,
Chưa xuân đã gởi nhân tình một đêm.
Bùn nhơ hạ giới trồi lên,
Ngập linh hồn trắng – nhuốm đen xác ngà...

Khách hà nhân giả?
Cắc cớ chi suồng sã kèo mời!
Giếng tình nương cơn ứ hự sụp trồi,
Khi lai tỉnh – Than ôi chừ bay mất!

“Trước ý tài hoa - hoa bất phát,
Vô tâm sáp liễu - liễu thành um.” (1)
Và ôi thôi, gạo đã nấu thành cơm!
Khê – sống – nhão, lửa rơm tàn đâu đủ.

Này kết quả một mầm sinh vừa nhú,
Bụng căng phồng như muốn nhủ nhân gian.
Trấu cùng tro bôi trát bức lở loang,
Lấy chi rửa tấm hồng nhan khờ khạo.

Sao xóa tẩy tích tàn đêm gây bão,
Một sinh linh tương báo đã hình thành...
Oan gì trách cứ cao xanh!...

Bùi Nghiệp
(1) Cố ý trồng hoa - hoa chẳng nở
Vô tình bón liễu - liễu mọc đầy
( Thơ Tính Lý)

27 tháng 11, 2012

KHÓC MĂNG




 Monica – Phạm Nguyễn Trúc Anh.
Khi tóc con, dăm bảy sợi còn xanh,
Mẹ trau chuốt nên dài an nhiên lắm.
Chân con bước sân giáo đường ngợp nắng,
Rộn ràng vui tà áo trắng tinh khôi.
Đức Mẹ trên cao nhìn xuống mỉm cười (?)
Bồi hồi nhớ ngày xuân Nazaret!…

Con riu ríu bước bên cha khép nép,
Mảnh trinh trong, trang giấy trắng mở ra.
Chữ đầu đời con viết: Monica!
Là thánh hiệu suốt đời con ghi nhớ.
Từ dạo ấy linh hồn con mở cửa,
Nhận dấu đức tin bỡ ngỡ vào đời.
Chúa Thánh Linh tăng thần khí đôi môi,
Con mạnh mẽ tụng xưng lời thánh đức.

Monica – Phạm Nguyễn Trúc Anh.
Khi tóc con, mười bảy sợi còn xanh,
Chưa người vuốt nên dài an nhiên lắm.
Chân con bước mảnh sân trường chợt nắng,
Tóc con dài giọt nắng trắng rơi rơi.
Chưa biết buồn , áo vẫn trắng tinh khôi…
Và trang sách mở ra dòng tri thức
Mê say uống - chưa no hồn rạo rực!…

Monica – Phạm Nguyễn Trúc Anh.
Sớm mùa đông – nguyệt tận trăng tàn,
Con bạc phận trút linh hồn mỏng mảnh.
Hoa phượng đỏ nở trái mùa đông lạnh,
Vội rụng rồi sắc huyết ứa tinh sương.
Bỏ chị - anh – và mẹ rất bi thương,
Bỏ bè bạn – mái trường thân âu yếm.
Bỏ lại hết – những vòng tay quyến luyến!
Con đi đi ! hoa bé nhỏ đáng yêu.
…Về tương lai,  nở lại đóa vô ưu,
Hoa vĩnh cửu dưới chân ngai bệ thánh!...

Các bác Khai Phá tiễn biệt con

24 tháng 11, 2012

HƯỚNG VỀ CHÚA



 (Ý Thánh vịnh 42)

Như nai khát mong tìm nước suối
Hồn tôi trông về dưới Thánh nhan
Khát khao cháy bỏng tâm can
Bao giờ bệ kiến tôn nhan Chúa Trời

Dòng châu lệ đầy vơi chan chứa
Là bánh cơm từng bữa tôi ăn
Thường nghe đàm tiếu thế nhân
Chúa ngươi đâu hỡi hỏi thăm chút nào?

Tôi để trí dạt dào tưởng nhớ
Thuở tiến về đất Hứa cao sang
Giữa đoàn trẩy hội hân hoan
Muôn muôn nhã nhạc ca vang tưng bừng

Hồn tôi hỡi thôi đừng phiền muộn!
Chớ than thân trách phận làm chi
Cậy trông ĐỨC CHÚA từ bi
Người là núi đá thành trì tôi nương

Ngày Chúa gởi tình thương hoan lạc
Đêm con ngâm thánh nhạc say êm
Hương kinh theo gió bay lên
Tụng ca nguồn sống Chúa trên đổ tràn

Ôi đời thế lang thang tiều tụy!
Bao quân thù đạp gí than tôi
Cốt xương từng khúc gẫy rời
Thù nhân lăng nhục từng hồi liên miên

Hồn tôi hỡi hãy quên buồn bã!
Chớ xót xa lã chã dòng châu
Hướng lên đền Thánh nguyện cầu
Xin Người cứu độ dẫn đầu tôi đi

BÙI NGHIỆP

CỦA ĐỜI PHÙ VÂN



 (Ý Thánh vịnh 49)


Vạn dân hỡi lắng tai nghe kỹ
Cả thấp hèn đến quý cao nhân
Phú gia cùng với cơ bần
Miệng tôi thưa thốt ân cần lẽ khôn

Lúc vận hạn này không phải sợ
Dẫu bọn gian vin cớ bất minh
Vênh vang của cải bình sinh
Nào đâu trả giá chuộc linh hồn sầu

Mạng đang sống trước sau cao thấp
Cũng rồi buông chấm dứt hết thời
Ngày cùng sẽ đến than ôi!
Kẻ sơ người trí tàn đời tiêu vong

Dẫu tên tuổi lừng vang lãnh thổ
Khắc uy danh bao chỗ người qua
Biết chăng bãi vắng tha ma?
Chỉ vuông đất mộ là nhà gởi xương!

Dẫu danh vọng đời vươn cao ngất
Bao công lao vun đắp dã tràng
Đều là sinh vật trần gian
Ngày kia phải chết đâu mang theo gì

Tất thế đấy, chung quy phận số!
Cả hèn, khôn, sang, khó ai ai
Tiêu tan một mảnh hình hài
Tồn, vong, sinh, tử bao loài như nhau

Nhưng ĐỨC CHÚA trên đầu tôi biết
Sẽ yêu thương tha thiết hồn ngay
Gỡ ra khỏi chốn đọa đày
Từ nơi âm phủ khỏi tay ngục thần

BÙI NGHIỆP

18 tháng 11, 2012

VĂN TẾ CÔNG PHỤ MỸ SƠN



 (Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ, Giám Mục tiên khởi Giáo Phận Long Xuyên, đã về nhà Chúa lúc 11 giờ VN, ngày 10-06-2009, tại Tòa Giám Mục ĐP Long Xuyên. Thượng thọ 100 tuổi)

Cha ơi !
Mãn phần nhân thế!
Hồi đáo thiên đàng.

Hình thương khẩu thay dời khuôn vân ảnh,
Bóng bạch câu lướt thóang cửa nhân gian.
Ngưu Đẩu mịt mù sa núi bắc!
Khuê Tinh nhòa nhạt đẫm sông nam.
Hạc thọ thiên niên giờ khuất bóng!
Qui linh bách tuế bỗng xa xăm.

Ngàn đồ đệ bơ vơ  cõi thế,
Triệu con chiên lạc lõng gian trần.
Hồng hộc cao bay,  ngàn xa về đất tổ,
Ngựa cưu xe cói,  lăn bánh biệt điền tang.

Linh xuân nhất chu lão!
Đan quế ngũ chi hương !!

Sách rằng:
Danh xưng: KHẮC -  NGỮ.
Thánh hiệu: MỸ -  SAN.
Niên canh tuất, đất Thái Bình - nhập gia đình nhân lọai,
Tuổi mười ba, miền Cao Lạng - vào chủng viện hiến dâng.
Rừng Nhu biển Thánh,
Lẽ Triết lý Thần.
Ân cần tụ hùynh tạc bích!
Mài miệt chí thiện chí nhân.

Hai lăm tuổi, tại Pháp quốc trao hàm linh mục,
Năm mươi ngòai, từ Rô Ma phong chức chủ chăn.
Câu nguyện ước phụng thờ Thiên Chúa,
Lời thề nguyền yêu mến tha nhân.

“CHRISTUS IN VOBIS.”
Ngôi Lời trong  anh em.

Từ thư ký Khâm sai, giáo sư chủng viện,
Đến bề trên quản hạt, giáo phụ nhà tràng.
Từ quê bắc  lo bề Hùynh Vũ,
Đến xứ nam canh cánh Tỷ Khang.

Lòng như trăng sáng,
Chí tựa đá vàng.
Ba địa lợi  hợp thành giáo phận,(*)
Bốn nhân hòa liên kết cư an.(**)

Bảy triền núi đúc hun hùng khí,
Chín bờ sông nung nấu tâm can.
Sông sâu rộng dẫy đầy tôm cá,
Đồng mênh mông ăm ắp lúa vàng.
Cha dốc sức vun bồi, dù bao phen khổ trí,
Cha quyết lòng đào tạo ,dẫu lắm lúc lao tâm.

Xây chủng viện ươm mầm truyền giáo,
Dựng thánh đường giảng dậy chư dân.
Đèn khêu tỏ cho danh Cha cả sáng,
Muối ướp nồng để đạo Chúa tỏa lan.

Cố công tích minh hồ kim thạch.
Bất yếu chu môn bất yếu lâm.
Bóng tang du  hạc cao tuổi thọ!
Thớt nhân sinh thuyền đã êm giầm.

Lạc thiên tri mệnh!
Tâm nguyệt cửu giang.
Gởi  thánh ấn cho người tài trí,
Trao trượng quyền đến bậc tùng quân.
Thung dung dưỡng dư nhật.
Thủ lạc vu du tang.

Thương ôi!
Tiếng tử qui năm canh chày nhịp gõ!
Giọt đồng hồ sáu khắc nhỏ thời gian.
Từ ngựa trúc áo hoa nơi Thái – Lạng,
Đến bích ngô thê lão chốn An- Giang.

Thương tang …– Thương hải!
Phù thế …– Phù vân!
Xác nằm xuống giã từ trần thế!
Hồn bay lên hội ngộ vĩnh hằng.
Cả giáo phận lạy cha vạn lạy!
Tòan giáo dân đẫm lệ đôi hàng.

Nay chúng con :
Đương môn đệ ghi son bố đại!
Cựu chủng sinh khóan sắt tri ân!
Điếm nguyệt cầu sương,
Qụy bái giai thành!

KP Bùi Nghiệp
(Lớp 64 S.Therese)
____________________________________
(*) Long xuyên, Châu đốc, Rạch giá.
(**) Công giáo, Phật giáo, Cao đài, Hòa hảo.

VĂN TẾ ÂN SƯ NGUYỄN VĂN KHẤN



Thánh hiệu Giuse,
Danh xưng Văn Khấn.
Thiên quốc vĩnh hằng,
Trần gian cõi tạm.

Sách ghi:
Đất Bắc Ninh - canh ngọ kỷ  (1930) xác khởi nhân trần,
Miền Cam Lĩnh - tân mão niên (2011) hồn quy thiên vận.
Tám mốt lẻ ruổi dong,
Bốn tám tròn thân dấn.

Tuổi đủ chục, chân thiếu thời vào chủng viện tung tăng,
Sang băm ba, tay niên tráng hiến đời tu vĩnh khấn.
Ngặt nghèo mệnh số, đất Bắc lang bạt long đong,
Điên đảo cung vi, trời Nam phiêu bồng lận đận.

Lòng phó dâng Thiên Chúa an bài,
Tâm tín thác Thánh Thần hướng dẫn.
Miền Sài đô êm ấm, tay mở khăn lễ uy nghi,
Đất Thụy Sĩ đăng trình, trí thu túi khôn cần mẫn.

Về bản xứ, đem tinh hoa dẫn dắt chỉ đường,
Hồi cố hương, lấy huệ quả đắp bồi khai khẩn.

Đất Sài thị xa rời,
Về Long Xuyên đáo nhận.
Đức vâng lời phó đấng bản quyền,
Tâm khiêm phục trao người cai quản.

Từ ân sư giảng dạy giáo tràng,
Đến quản lý văn phòng địa phận.             
Sức đã yếu bởi sớm tối miệt mài,
Tâm chưa mòn dù ngày đêm cần mẫn.

Bệnh tình sang đất Mỹ, nỗi tâm sự u uẩn chẳng vơi       ,
Bịn rịn biệt trời Nam, niềm tri giao hàn huyên chưa cạn.

Ngờ đâu:
Ách thống thiên tai!
Họa đeo quốc nạn!
Đường đi thong dong,
Lối về bít chắn!
Nhớ quê hương vò võ, đáy lòng thổn thức băn khoăn,
Hoài cố quốc khôn nguôi, tấc dạ ngổn ngang u uẩn.
Lại quy tụ dân di trú xa bày,
Thêm góp gom người rời quê tránh nạn.
                                                                       
Một đời tằm nhả tơ muôn,
Suốt kiếp ong gom mật vạn.
Nâng đỡ kẻ tha phương bớt nỗi hoài mong,
Ủi an người cố lý vơi cơn ách nạn.
Kiếp lữ hành che gió chở mưa,
Đời linh mục trong khơi đục gạn.

Than ôi:
Khắc hết  giờ tan,
Niên cùng nguyệt tận!
Hồi triệu thiên cung!
Đáo kỳ viên mãn.

Phút khởi sinh thánh ý an bài,
Giờ lâm tử Chúa trên định sẵn.
Đủ nén kim ngân trao thuở đầu đời,
Ắp kho châu báu trả khi mãn hạn.

Nay chúng con:
Côi cút u buồn!
Bơ vơ bạc phận.
Đốt ngọn nến, tiễn thầy cả về cõi trường sinh!
Thắp làn hương, đưa ân sư đến miền vĩnh trấn.
Trọng cẩn!!

VĂN TẾ ANNA LAN



Anna Nguyễn thị Lan, về nhà Cha
15.3.2012 tại Bordeux, Pháp quốc
 – viết thay KP Vũ Quang Tốt
An-na Lan!
Em Nguyễn Thị Lan.
Tuyết tiêu vân tán!
Nguyệt khuyết hoa tàn.

Từ mậu tuất chào đời miền Gia Định!
Đến nhâm thìn giã biệt chốn Âu san.
Dòng giống Bắc Ninh, câu quan họ khi trầm khi bổng;
Nữ nhi Đất Việt, giọng ru hời lúc nhặt lúc khoan.

Đạp sóng cỡi kình sang đất Pháp,
Thuận chèo mát mài giã trời Nam.
Dẫu đất khách như ngựa Hồ vờn gió Bắc!
Nhưng quê người ngóng chim Việt đậu cành Nam.
Bi cung số phận - lạc gia vong thổ!
Hảo mệnh phu thê - nồng gối ấm chăn!

Thủy chung son sắt,
Sau trước đá vàng.
 Tốt cùng Lan, cặp tâm đắc vợ chồng chung chăn gối.
Minh- Long- Vũ, ba xum xuê con trẻ cạnh mâm bàn,

Đời như đủ long đong mùi cam khổ,
Kiếp dẫu dư lận đận vị tân toan.
Thuyền hạnh phúc cứ dạt dào theo Bắc đẩu,
Xe phụng loan còn rộn rã ngoái Nam quang.

 Than ôi!
Có phải trời ghen hạnh phúc?
Hay là đất giận đa đoan?
Chim trang điểm xiêm y, cánh bạch yến vờn bay tìm xuân ấm,
Hoa thắm tô tươi sắc, đài hoàng lan phơi phới giã đông hàn.

Một giây đột tử!
Nửa khắc tiêu tàn.
Xa phu quân, em nỡ nào sẻ nghé,
Bỏ huyết tử, mẹ đành đoạn tan đàn.

Bất hứa kiến bạch đầu, tuy em chẳng là mỹ nữ,
Tự cổ thùy danh tướng, dẫu vợ đâu phải giai nhân.

Trách chi định mệnh!
Thôi tại số phần.
Thắp đôi bạch lạp,
Đốt một tuần nhang.

Người đi về chốn thiên thu, chờ đợi anh đoàn viên đất hứa,
Kẻ ở lại nơi lữ khách, nguyện cầu em hạnh phúc vĩnh hằng.
Tống biệt!
Nghỉ an!..

BÙI NGHIỆP