Trang

28 tháng 11, 2013

THU NHẬT KÝ HỨNG – NGUYỄN DU



秋日寄興

西風纔到不歸人
頓覺寒威已十分
故國山河看落日
他鄕身世托浮雲
忽驚老境今朝是
何處秋聲昨夜聞
自哂白頭欠收入
滿庭黄葉落紛紛

阮攸

  Phiên âm: Thu nhật kí hứng

Tây phong tài đáo bất quy nhân
Đốn giác hàn uy dĩ thập phần
Cố quốc sơn hà khan lạc nhật
Tha hương thân thế thác phù vân
Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn
Tự sẩn bạch đầu khiếm thu nhập
Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân
Nguyễn Du


Dịch nghĩa: Ngày thu chép hứng

Gió tây mới đến cùng người không về nhà được
Mà đã thấy khí lạnh mười phần ghê gớm
Non sông nước cũ trông bóng chiều tà
Thân thế chốn tha hương gởi cho đám mây nổi
Sáng hôm nay chợt thấy cảnh già mà kinh
Đêm qua nghe tiếng thu ở nơi nào nổi dậy
Cười mình đầu đã bạc mà thiếu tài thu xếp
Đầy sân lá vàng rụng bời bời

Dịch thơ: Ngày thu chép hứng

Gió tây mới thoảng khách xa đường,
Khí lạnh đìu hiu đã thấm xương.
Chiều nhuộm núi sông tình cố quốc,
Mây vần thân thế bóng tha hương.
Vừa nghiêng tai lắng thu lên tiếng,
Bỗng giật mình trông tóc trắng gương.
Ngán nỗi già đời không biết liệu,
Đầy sân nượp nượp lá bay sương.
Quách Tấn dịch
(Tố Như thi, An tiêm tái bản, 1995, France)

NHẬT KÝ NGÀY THU  (Phóng dệt Bongtaduong)
Ngọn gió tây về nhớ cố hương
Lạnh lùng giá rét thấu vào xương
Non sông nhuộm đẫm niềm vong thổ
Mây nước trào vun nỗi đoạn trường
Bình minh thoắt đến chiều ngao ngán
Đêm tối mang về gió vấn vương
Tóc bạc tự cười mình vô dụng
Sân phơi lá rụng kiếp vô thường

26 tháng 11, 2013

THÀNH HẠ KHÍ MÃ – NGUYỄN DU




城下棄馬

誰家老馬棄城陰
毛暗皮乾瘦不禁
石壘秋寒經草短
沙場日暮陣雲深
饑來不作求人態
老去終懷報國心
耐得風霜全爾性
莫教羈縶再相侵

Phiên âm: Thành hạ khí mã


Thùy gia lão mã khí thành âm
Mao ám bì can sấu bất câm
Thạch lũy thu hàn kinh thảo đoản
Sa trường nhật mộ trận vân thâm
Cơ lai bất tác cầu nhân thái
Lão khứ chung hoài báo quốc tâm
Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính
Mạc giao ki trập tái tương xâm

Nguyễn Du
阮攸
Dịch nghĩa: Ngựa bỏ dưới chân thành

Con ngựa già nhà ai bỏ dưới bóng thành?
Lông nám da gô gầy không thể tả
Nơi thạch lũy thu lạnh, lối cỏ cằn cỗi
Chốn sa trường trời chiều, lớp mây dày dặc
Bụng đói, không học thói cầu cạnh người
Tuổi già, vẫn giữ lòng mong đền ơn nước
Chịu được phong sương, trọn tánh trời
Chớ để cương dàm phạm vào thân một lần nữa

Dịch thơ: Ngựa bỏ chân thành

Ngựa già ai bỏ góc thành hoang?
Lông nám đuôi cùn da bọc xương.
Lạnh ấy cỏ thu đường thạch lũy,
Mây un ngày tối dặm sa trường.
Ơn người, đói vẫn không cầu cạnh,
Nợ nước, già đâu ngớt vấn vương.
Sương gió tánh trời mừng giữ vẹn,
Thân đừng vướng nữa nghiệp yên cương.

Quách Tấn dịch
(Tố Như thi, An Tiêm tái bản, France, 1995)


PHẾ MÃ TỰ HOÀI (Phóng dệt Bongtaduong)
Lão ngựa nằm co dưới vệ thành
Lông bờm trơ trụi quá thời danh
Bồi hồi cỏ úa khi bình thái
Vọng tưởng mây đùn lúc chiến tranh
Bụng đói đoan thề ôm khí tiết
Tuổi già cương quyết giữ lòng thanh
Phong sương cốt cách tròn thiên tánh
Cương tỏa ngoài tai mệnh sẵn dành

24 tháng 11, 2013

HOÀNG HẠC LÂU – THÔI HIỆU





黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是
     煙波江上使人愁。

Phiên âm Hán-Việt
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
         Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
         Thôi Hiệu

Dịch nghĩa
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
          Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!
  
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy
Hoàng hôn về đó quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.

LẦU HOÀNG HẠC (Phóng dệt Bongtaduong)
Người xưa cách biệt đã xa rồi
Lầu hạc trơ vàng giữa núi khơi
Chim đã bay đi nào luyến nhớ
Mây còn trụ lại vẫn êm trôi
Hán Dương bóng vẽ cây xanh tạc
Anh Vũ hình in cỏ biếc bồi
Chiều xuống hỏi mình đâu cố quận!
Sông buồn khói tỏa dạ khôn vơi.

23 tháng 11, 2013

NGẪU ĐẮC – NGUYỄN DU




偶得

孤城日暮起陰雲
青草漫漫到海濱
曠野遍埋無主骨
殊方獨托有官身
事來徒隸皆驕我
老去文章亦避人
望外鴻山三百里
相從何處問前鄰

阮攸
 
Phiên âm: Ngẫu đắc

Cô thành (1) nhật mộ khởi âm vân
Thanh thảo man man đáo hải tần
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt
Thù phương độc thác hữu quan thân
Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã
Lão khứ văn chương diệc tị nhân
Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách lí 
 Tương tòng hà xứ vấn tiền lân
Nguyễn Du



Dịch nghĩa: Tình cờ làm được những câu đắc ý

Thành lẻ loi, ngày tối, mây đen nổi
Cỏ xanh mênh mang lan tới bờ biển
Đồng trống khắp nơi vùi xương vô chủ
Phương xa riêng gởi tấm thân làm quan
Khi gặp việc, bọn tôi tớ đều lên mặt với ta
Già đến rồi, văn chương cũng lánh người
Nhìn ra ngoài Hồng Sơn xa ba trăm dặm
Biết theo chốn nào mà hỏi xóm ngày xưa

Dịch thơ: Ngẫu đắc

Chiều tuôn mây ngút nhẩy cô thành
Cỏ biếc tràn lan tận biển xanh
Nội quạnh chôn đầy xương bạc mệnh
Quê người gởi tạm kiếp phù vinh
Việc bày nha lại đều lên mặt
Già đến văn chương cũng lánh mình
Ngoảnh lại Hồng Sơn trăm dặm cách
Nơi đâu xóm cũ bước tìm quanh
Quách Tấn dịch
(Tố Như thi, An Tiêm tái bản, France, 1995)

BUỘT MIỆNG VÔ TÌNH (Phóng dệt Bongtaduong)
Chạng vạng cô thành mây xám trôi
Cỏ xanh lan rợp thấu chân trời
Đồng không cất giấu  mồ vô chủ
Đất khách vùi chôn kiếp cả đời
Hữu sự tôi đòi vênh váo ngẩng
Hết thời chữ nghĩa lạnh lùng trôi
Hồng sơn ngoảnh lại trăm đường cách
Xóm cũ nơi nao biết hỏi Trời!

21 tháng 11, 2013

VỊNH HẠNG VŨ ĐẦU – CAO BÁ QUÁT





詠項羽頭
垓下才收叱咤聲,
有頭如此使人驚。
堂堂八尺身何在,
凜凜重瞳貌若生。
百戰得來原不易,
千金購去更何輕。
英雄到底長轟烈,
一視猶能下虜城。

Vịnh Hạng Vũ đầu
Cai Hạ tài thu sất trá thanh,
Hữu đầu như thử sử nhân kinh.
Đường đường bát xích thân hà tại,
Lẫm lẫm trùng đồng mạo nhược sinh.
Bách chiến đắc lai nguyên bất dị,
Thiên kim cấu khứ cánh hà khinh.
Anh hùng đáo để trường oanh liệt,
Nhất thị do năng hạ Lỗ thành.
Cao Bá Quát

DỊCH NGHĨA
Tiếng thét (thôi thúc lòng quân Sở) vừa ngưng ở Cai Hạ
Có đầu như thế khiến người ta sợ
Tấm thân tám thước uy dũng giờ ở đâu?
Hai tròng mắt vẫn lẫm liệt như khi còn sống
Xông pha trăm trận nào phải dễ dàng gì
Treo giá ngàn vàng (cái đầu) đâu phải coi nhẹ
Anh hùng đến cuối vẫn còn oanh liệt
Một cái nhìn khiến nước Lỗ phải mở cửa thành quy hàng.

Lược ý bài thơ

Sau khi thất trận ở Cai Hạ, (câu 1), Hạng Vũ dẫn 20 tùy tùng mở đường tháo chạy về Ô Giang, đi đến đâu, quân Hán Lưu Bang ngã rạp đến đấy (câu 5). Sau khi tặng con ngựa cho lão chèo thuyền, Hạng Vũ quay lại nói với tùy tướng là Lã Mã Đồng: “Quân Hán treo đầu ta nghìn vàng, cấp trăm hộ, nay lấy đầu ta mà lãnh thưởng”. Nói xong đâm cổ tự vẫn (câu 6). Quân Hán ùa đến tranh thây khiến thân bị xé thành nhiều mảnh (câu 3) chỉ còn cái đầu mang về nạp cho Lưu Bang (câu 2) với đâu mắt còn tinh anh như thời còn sinh tiền (câu 4). Sau khi Hạng Vũ mất, Lưu Bang đi thu phục các nước chư hầu, chỉ riêng nước Lỗ không quy thuận. Lưu Bang sai quân cắm đầu Hạng Vũ trước cổng thành, Lỗ vương thấy đầu của Hạng Vũ với đôi mắt còn uy dũng nên mở cửa thành đầu hàng (câu 7-8).

THỦ CẤP HẠNG VÕ (Phỏng dệt Bongtaduong)
Thành Cai tiếng thét đã ngưng lời
Hoảng hốt quân nhìn thủ cấp rơi
Tám thước hùng anh dầu ngã gục 
Hai tròng lẫm liệt vẫn giương khơi
Mình giao trăm trận đâu trò bỡn
Mạng trả ngàn vàng há chuyện chơi
Khí phách hiên ngang uy dũng ấy
Trừng ngươi Lỗ quốc phải buông rời