Trang

24 tháng 11, 2013

HOÀNG HẠC LÂU – THÔI HIỆU





黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是
     煙波江上使人愁。

Phiên âm Hán-Việt
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
         Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
         Thôi Hiệu

Dịch nghĩa
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
          Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!
  
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy
Hoàng hôn về đó quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.

LẦU HOÀNG HẠC (Phóng dệt Bongtaduong)
Người xưa cách biệt đã xa rồi
Lầu hạc trơ vàng giữa núi khơi
Chim đã bay đi nào luyến nhớ
Mây còn trụ lại vẫn êm trôi
Hán Dương bóng vẽ cây xanh tạc
Anh Vũ hình in cỏ biếc bồi
Chiều xuống hỏi mình đâu cố quận!
Sông buồn khói tỏa dạ khôn vơi.

Không có nhận xét nào: