29.3.2013, thứ 6 Tuần Thánh
(Hạn vận: Thương – khó – đức – Ki – Tô)
Dựa
theo các Thánh ký: Mt.26,36-75; Mt.27,1-66; Mt.28.1-8,Mc.14,32-72; Mc.15,1-47;
M.c16,1-8; Lc.22,39-71;
Lc.23,1-36; Lc.24,1-7; Ga.18-40; Ga.9.1-42; Ga.20,1-10.
Đây
chiên hiến tế!
Này lễ
thủy chung!
Khu vuờn Giệt màn đêm
rơi phủ,
Núi Ô-liu bóng tối chùng
buông.
Mây khuất che - ánh
trăng mờ thổn thức,
Gió im lặng - sương rơi
nhẹ canh trường.
Gối lẳng lặng quỳ, mình Giê-su hiu quạnh,
Thân cô đơn lẻ, nguyện Thiên Chúa xót thương.
-“Ơi Thiên Chúa! hãy cất cho con: chén này chát
đắng,
Hỡi cha ôi! xin vâng thánh ý: giao ước tròn
vuông.”
Mồ hôi quyện chứa chan
tuơm rơi đổ,
Máu đỏ hòa thánh thót ứa
tràn tuôn.
Chư môn đệ xác thịt nặng
nề: sao ngủ vùi mộng mị?
Cả tùy tùng tâm thần yếu
đuối: nào tỉnh thức đêm sương!
Ngày điểm rồi, ngày CON
NGƯỜI khổ nạn.
Giờ đã đến, giờ CỨU THẾ
bi thương.
Ánh đuốc bập bùng!
Quan quân hùng hổ!!
Kẻ Giu-đa trơ trẽn hôn thầy,
Quân Do Thái hung hăng trói độ.
-“Nhân sao buổi bạch
nhật - ta răn dậy chính đạo hội đường!
Hà cớ đêm thanh khuya -
ngươi mưu toan tà tâm tố khổ?”
-“Thôi để ứng nghiệm:
câu sấm ký lưu truyền,
Ngõ hầu tròn đầy: lời
tiên tri sớm tỏ!”
“Đánh chủ chăn sẻ nghé
tan đàn!
Cho chiên nhỏ mật kinh
gan sợ.”
Lối nhà thượng tế, hung đồ đạp đánh đẩy xô,
Đường dinh Cai-pha, quân ác đòn roi báng bổ.
Này
Si-mon từ giờ tý - lẽo đẽo theo
thầy!
Nọ tỳ
nữ lúc canh hai - lẻo leo chỉ trỏ...
-“Chính ông đây đệ tử phạm nhân!”
-“Người nói gở ta nào
đâu có!”
Đã qúa tam - ông thề
thốt, bai bải chối quanh,
Đầy ba lượt - gà gáy
vang, cúc cu nhắc nhở.
Nước mắt trào vong
nghĩa thẹn thùng.
Dòng sám hối bội ân xấu
hổ.
Chúa Giê-su
cột đá - tay trói chân xiềng.
Quân kỳ mục
gậy roi- đánh đòn phỉ nhổ.
Kìa vương miện, nhọn sắc đặt trên đầu,
Đây vòng gai,
vuốt đinh đâm thủng sọ.
Mới tảng sáng, áp giải
thượng hội đồng
Vừa bình minh, lập bè
gian truy tố.
Mặc vu oan cáo vạ - mặc
nỏ miệng gìa mồm.
Chỉ xảo ngữ xảo ngôn - Chỉ
vô căn vô cớ.
Rầm rập
điệu người sang phủ Phi-la-tô.
Ồn ào lũ nó tràn dinh quan trấn thủ .
Lời vấn cung trên dưới chẳng nguyên do.
Cuộc tra xét trước sau không rõ tỏ.
“Thì thôi can phạm Ga-li-lê-a.
Nên hãy nộp vua Hê-rô-đe xử.”
Điện ngọc ngà Hê-rốt ngự tra cung,
Thềm tam cấp Giê-su ngồi đáp đủ.
“Chê
bai rằng dại rằng ngây!”
“Nhiếc
mắng bởi ương bởi dở!”
Áo
bạch bào “Vua giả” khóac châu thân.
Mão
gai sắc Chúa Trời mang đỉnh sọ.
Hồi dinh Phi-la-tô,
Bọn kỳ hào la ó.
Quan phán hỏi: “Người
này chẳng tội tình?”
Lũ la to: “Nó đáng
nên xử tử!”
-“Xin tha bổng Ba-ra-ba
mà hãy giết Giê-su!
Quyết đóng đinh tên ngạo
mạn rồi treo cây thập tự.”
Quan rửa tay: “ Mỗ vô can chẳng dính dáng tội tình!”
Lũ dậm cẳng: “Đây lãnh chịu không rầy rà nhiễu
sự !”
-“Huyết người này hãy đổ ngập chúng tôi,
Máu của nó cứ tràn trên con đỏ.”
Tên phản bội Giu-đa Ích-ca-ri-ô,
Bán đứng thầy ba mươi
đồng ô trọc.
Quẳng bạc tiền đền
thánh, thiên bất dung gian.
Đi thắt cổ đồng hoang,
diều tha quạ rúc.
Tiền Xê-da vương vãi đền
thờ,
Mua ruộng máu xung vào
qũy ước.
Thương ôi!
Kết án tử hình Con Đức Chúa Trời.
Đóng đinh chúa cả cha đàng nhân đức.
Đỉnh Gol-gô-tha!
Đường xa dốc ngược.
Nẻo hành trình loang máu đồi khô,
Đường khổ nạn mồ hôi suối ướt.
Lưng hằn roi nứt thịt
nát da,
Vai thập giá gò gân khụyu cốt.
Mỗi dấu chân là một trận
roi đòn,
Ba lần ngã là ba hồi xô
dập.
Kìa mẹ người gặp đó Đức Ma-ri-a,
“Này con hỡi tội tình chi ô nhục!”
Thảm thương thay phổi chúa hơi tàn,
Đau đớn lắm lòng bà ruột đứt.
Có người dân ngọai lưng
vác khỏang chặng đường,
Ơi ông Si-mon vai kề
chia hơi sức.
một Ve-ro-ni-ca gan góc:
lau mặt Chúa thê lương.
Mươi phụ nữ
Giê-ru-sa-lem: khóc than Người thổn thức...
Ngỏanh lại mà rằng:
-“Hỡi người đỏan phước!
Chớ xót thương ta lắm , này người nữ thành đô!
Mà than khóc thị nhiều, cùng giống dòng hậu tức.”
-“Phúc thay phụ nữ vô sinh!
Mừng cho đàn bà tuyệt tự”
Sẽ đến ngày bẩm cùng gò nổng: Đổ gấp xuống đi!
Rồi tới khắc thưa với núi non: Vùi mau cho khuất”
Nơi tử địa quân ác lột trần truồng,
Chốn hành quyết hung đồ
chia y phục.
Áo trong bốc thăm,
Mảnh ngòai chia chác.
Xô ngửa thân căng nọc tứ chi,
Đè nghiến xác đóng đinh thủ túc.
Kèm câu niêm yết: Vua xứ Giu-đê-a!
Thêm biển văn bài: Giê-su Na-gia-rét.
Dựng lên cao một chúa lòng lành,
Bên tả hữu hai tên trộm cướp.
Mạch huyết châu
đà chảy hết tân cùng,
Khô đắng miệng Chúa kêu rằng khát nước.
Miếng giấm chua tra ngọn sậy dâng mời,
Lưỡi nếm thử tận cùng ơn cứu chuộc.
Đứa cướp nọ,
Nghênh râu hậm hực:
-“Đức Ky-tô há chẳng tự
cứu mình?
Con Thiên Chúa sao không
lo giải thóat?”
Kẻ trộm kia,
Cúi đầu phủ phục:
-“Đấng ngay lành nào chi
có tội tình!
Ta gian phỉ thật xứng mang
án cực”
-“Thưa Con Chúa, khi nào
ngài đến nước Thiên đàng,
Lạy Giê-su, nhớ đến tôi
khỏi sa địa ngục.”
Ngỏanh mặt ngài rằng:
-“Thực ta bảo thực”
-“Ngay hôm nay hết khổ ải trần gian,
Một chốc nữa được vui vầy Thiên quốc.”
Đọan rồi ngước mắt,
Than thở lâm ly:
“Chúa hỡi! Chúa ơi! Cha
ơi bỏ con sao nỡ?”
Ê li, Ê li, lê ma sa bác
tha ni!
“Chúa Trời hỡi! Thân này
xin phó thác!
Linh hồn đây! Đang giây
phút sinh thì...”
Gục đầu tắt thở!
Trời đất ai bi!!
Mũi giáo nhọn tên các quan đâm ngược,
Thọc trái tim máu cùng nước rỉ xuôi.
Giờ thứ sáu qua giờ thứ chín,
Cả vũ hòan u uất khôn nguôi.
Làn bóng tối phủ vây giờ chính ngọ,
Màn đền thờ rách tọac giữa cung uy.
Đất run rẩy núi non
chuyển động,
Mộ bật tung trồi dậy
cương thi.
Viên đội trưởng thốt
lên: ”Hỡi ôi người công chính”
Cả chúng nhân gục xuống:
”Xin đấm ngực phục qùy”
Có người A-ri-ma-thê tánh danh Giô-sếp.
Can đảm xin Phi-la-tô thi thể Giê-su.
Hạ thánh giá, tháo đinh, lau dấu máu.
Xức thuốc thơm, tẩm liệm, bọc quan y.
Mươi môn đệ táng người trong huyệt đá,
Dăm nữ nhân than vãn trước nhà mồ.
Tảng đá xám lạnh lùng che cửa mộ
Người thân yêu vật vã khóc bơ vơ.
Giọt
sầu sóng sánh
Mắt
lệ thẫn thờ.
Đêm
tử thần đắc thắng!
Giờ
công lý phai mờ.
Qua Sa-bát trời vừa tảng sáng,
Ngày đầu tiên đất rạng kim ô.
Mấy phụ nữ sọan dầu thơm viếng mả,
Chục môn sinh dợm gót bước thăm mồ.
Tảng
đá lệch ngôi huyệt không... trống hóac.
Khăn
liệm đây nhà mồ vắng... ô hô!
Kìa
thiên sứ báo tin vui rành rọt,
Này
các người sao thắc mắc ngẩn ngơ?
“Con
Thiên Chúa phục sinh từ cõi chết!
Đức
Giê-su sống lại ra khỏi mồ.”
Hòan tất công trình ơn cứu chuộc!
Vẹn tòan đoan hứa thuở ban sơ.
Kính thờ ngôi Thiên Chúa!
Công nghiệp đức Ky-tô!!!...
Bùi Nghiệp
(nguồn Hiệp Thông số 39-2007)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét